Bí mật quần thể lăng mộ phụ thân Nam Phương Hoàng hậu
Ngay cả những người sống lâu năm ở Đà Lạt, cũng không mấy ai biết rằng, phía Tây Nam của thành phố này có một quần thể lăng mộ tráng lệ Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào, cha ruột Nam phương Hoàng hậu, vợ Hoàng đế Bảo Đại.
Quốc trượng vua Bảo Đại
Ông Nguyễn Hữu Hào quê huyện Gò Công, nay thuộc tỉnh Tiền Giang, vốn sinh ra trong một gia đình khá giả. Từ nhỏ ông đã được cha mẹ nuôi cho ăn học tử tế ở các trường Tây và có bằng Tú tài. Ông được xem là người nhạy bén với thời cuộc, có kiến thức sâu rộng về hoạt động kinh doanh và chí làm giàu.
Nam phương Hoàng hậu.
Cuộc đời ông chỉ thực sự đổi thay sau khi lấy vợ. Đến tuổi lập gia đình, ông Hào cưới bà Lê Thị Bính. Gia đình bà Bính thuộc diện giàu nhất đất Nam kỳ, là con gái của đại điền chủ huyện sĩ Lê Phát Đạt.
Theo các tài liệu còn lưu lại, chỉ tính riêng quận Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc Cần Thơ), vào năm 1928 gia đình ông Nguyễn Hữu Hào đã có hơn 1.000 mẫu ruộng. Sau khi lập gia đình, được sự hậu thuẫn từ phía nhà vợ, ông Nguyễn Hữu Hào không ngừng mở rộng đất đai, đồn điền trồng lúa, cao su… ở các tỉnh Tây Nam bộ, Đông Nam bộ và vùng Tây Nguyên, trong đó có Đà Lạt.
Vợ chồng ông Hào sinh được hai người con gái, là Agnès Nguyễn Hữu Hào và cô em là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào ( Nguyễn Hữu Thị Lan).
Trưởng nữ Agnès Nguyễn Hữu Hào sau đó được gã cho Nam tước Pierre Didelol, bấy giờ đang giữ chức Khâm mạng Hoàng triều cương thổ (thuộc các tỉnh Tây Nguyên ngày nay). Thứ nữ Mariette Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan là người có nhan sắc hơn người, thông minh, học rộng, có bằng Tú tài toàn phần năm 18 tuổi, thuộc diện nữ giới học cao bậc nhất đất Nam kỳ bấy giờ.
Để cưới được Nguyễn Hữu Thị Lan, vua Bảo Đại phải chấp nhận 4 điều kiện
Trước tài sắc toàn diện của Nguyễn Hữu Thị Lan, cô được một số viên chức người Pháp thân cận với hoàng đế Bảo Đại chọn để cho tiếp cận, làm quen với nhà vua.
Ngay lần gặp gỡ đầu tiên, vị Hoàng đế trẻ tuổi đã nhanh chóng say mê sắc đẹp thùy mị của Nguyễn Hữu Thị Lan. Thậm chí, trước khi nhận lời cưới Hoàng đế, Nguyễn Hữu Thị Lan còn ra 4 “điều kiện” với Bảo Đại, trong đó có việc phải phong Hoàng hậu cho cô ngay sau lễ cưới. Đây là điều mà trong các vị vua trước đó dưới triều đại nhà Nguyễn chưa từng có tiền lệ.
Thông thường, việc phong Hoàng hậu chỉ được thực hiện sau khi người đó đã qua đời. Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Thị Lan đề nghị được giữ nguyên đạo Thiên chúa, Bảo Đại vẫn theo đạo Phật và được Tòa thánh La Mã cho phép đặc biệt hai người lấy nhau, giữ hai tôn giáo khác nhau, không ai được bắt buộc ai về tôn giao. Đây cũng là điều chưa từng có tiền lệ.
Ngày 6.2.1934, tại điện Kiến Trung trong Hoàng thành Huế, đã diễn ra lễ cưới của Nguyễn Hữu Thị Lan và vị Hoàng đế cuối cùng của xã hội phong kiến Việt Nam. Sau khi phong Nguyễn Hữu Thị Lan là Nam phương Hoàng hậu, 3 năm sau, ngày 30.7.1937, Bảo Đại phong tước quốc trượng cho cha vợ (ông Nguyễn Hữu Hào) là Long Mỹ Quận công.
Video đang HOT
Tuy nhiên, chỉ hơn tháng sau, ông Nguyễn Hữu Hào qua đời ở Đà Lạt. Bà Lê Thị Bính cũng được nhà vua phong tước Nhị phẩm phu nhân.
Cao nhân phong thủy chọn vị trí đặt mộ
Sinh thời, ông Nguyễn Hữu Hào rất yêu mến vùng đất cao nguyên này, gia đình ông cũng đã cho người khai khẩn hàng trăm hecta đất, lập nên những trang trại cà phê, chè, rộng lớn tại vùng Xuân Trường, Trạm Hành và trung tâm TP Đà Lạt ngày nay.
Nhiều dinh thự có vị trí đẹp tại Đà Lạt cũng đã được Bảo Đại mua lại từ các quan chức Pháp, trong đó nổi tiếng nhất là dinh I, II và III (nay trở thành điểm tham quan của khách du lịch khi đến Đà Lạt).
Lối lên lăng Quận công Nguyễn Hữu Hào ở TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Thân phụ Nam Phương Hoàng hậu thể hiện sự giàu có bằng việc mua lại hoặc cho xây dựng những căn biệt thự tráng lệ tại Đà Lạt. Tiêu biểu bậc nhất là căn biệt thự sang trọng, uy nghi trên một quả đồi thông hướng về phía hồ Xuân Hương, nay thuộc đường Hùng Vương, TP Đà Lạt. Sau đó, căn biệt thự này được vợ chồng ông Nguyễn Hữu Hào tặng con gái Nguyễn Hữu Thị Lan với tên gọi là Cung Nam phương Hoàng hậu. Bây giờ cung biệt thự này thuộc sở hữu của Bảo tàng Lâm Đồng và vẫn còn nhiều đồn đại về một đường hầm thoát hiểm từ căn biệt thự dẫn ra rừng thông phía sau.
Lại nói về Quận công Nguyễn Hữu Hào, những tháng năm cuối đời, vợ chồng ông hầu như chỉ sinh sống ở Đà Lạt mà ít khi trở về quê nhà Gò Công. Mặc dù quê gốc ở Nam bộ nhưng quốc trượng của vua Bảo Đại lại có nguyện vọng sau khi qua đời sẽ được chôn cất tại Đà Lạt.
Lăng mộ Quận công Nguyễn Hữu Hào và Nhị phẩm phu nhân Lê Thị Bính
Bởi vậy, sau một thời gian ông Nguyễn Hữu Hào lâm bệnh, biết khó có thể qua khỏi, ngoài việc gấp rút phong tước Long Mỹ Quận công, Hoàng đế Bảo Đại và Nam phương Hoàng hậu đã mời nhiều cao nhân phong thủy tìm vị trí đặt lăng mộ cho quốc trượng sau khi qua đời.
Đỉnh một quả đồi cao phía Tây Nam, đối diện với thác Cam Ly, nay thuộc phường 5, TP Đà Lạt được Nhà vua và Hoàng hậu lựa chọn.
Ngày 13.9.1937, ông Nguyễn Hữu Hào mất và được Bảo Đại cho an táng theo nghi thức tước Quận công. Tổng thể khu lăng mộ được xây dựng liên tục trong 4 năm, đến ngày 10.9.1941 thì hoàn thành.
Khu lăng mộ Nguyễn Hữu Hào là công trình kiến trúc tráng lệ, uy nghi, tọa lạc tại một vị trí được coi là đắc địa, cao điểm long mạch, cổng trước hướng về trung tâm TP Đà Lạt.
Theo Vũ Sơn (Kiến Thức)
Nam Phương hoàng hậu: Cuối cùng còn lại là tình yêu
Vào buổi chiều tối ngày 15/9/1963, tại lâu đài Domain de la Perche, thuộc làng Chabrignac, vùng Trung Tây nước Pháp, Nam Phương hoàng hậu lặng lẽ qua đời. Năm ấy bà mới 49 tuổi.
Lúc bà mất, bên cạnh không có một người thân thiết nào, ngoài hai phụ nữ giúp việc. Căn bệnh tim mãn tính, thêm với trận cảm nắng tưởng chừng xoàng xĩnh, nhưng khiến bà không chống đỡ nổi trong khi chờ bác sĩ tới. Một cái chết ít ai ngờ tới, hay đó chính là định mệnh của vị hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn, cũng là hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam. Một cuộc đời tưởng chừng thanh nhàn, êm ấm, nhưng cũng không ít sóng gió, hắt hiu và ra đi trong cô độc.
Nam Phương hoàng hậu.
Nam Phương hoàng hậu là thứ nữ của ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình, tức là cháu ngoại của đại phú hào Lê Phát Đạt, tục gọi là ông Huyện Sỹ. Theo tục lấy tên cha, bà có tên là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào, và tên thánh là Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan.
Tuy sinh ra ở Gò Công (Tiền Giang), nhưng hai chị em bà được gia đình cho lên Sài Gòn ăn học, sống trong căn biệt thự sang trọng trên đường Nguyễn Du, nơi cách nhà thờ Huyện Sỹ chỉ vài phút đi bộ. Gọi là nhà thờ Huyện Sỹ vì nhà thờ này được ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu hiến tặng rất nhiều tiền để xây dựng. Nay nhà thờ này vẫn còn. Và là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng của Sài Gòn hôm nay.
Thuở nhỏ ở Gò Công, rồi cùng chị lên Sài Gòn ăn học, Nguyễn Hữu Thị Lan lúc nào cũng là một người thiếu nữ đằm thắm, ngoan hiền. Có thể nói cả thời trẻ cô chăm chú chuyện học hành. Năm 12 tuổi thì được gia đình gửi sang Pháp học trường nữ sinh danh tiếng Couvent des Oiseaux (Paris). Tháng 9/1932, sau khi thi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Hữu Thị Lan về nước trên con tàu D'Artagnan của hãng Messagerie Maritime.
Có tài liệu nói vua Bảo Đại cũng đi trên chuyến tàu đó, rồi tình cờ hai người gặp nhau. Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng thực ra hai người đã biết nhau từ ngày còn học bên Pháp, chuyến trở về là một cơ duyên để thêm gắn kết, thắm tình. Cũng có nguồn tin cho rằng hai người gặp nhau tại Đà Lạt trong một dạ tiệc tại khách sạn La Palace do Toàn quyền Đông Dương tổ chức.
Không rõ sương mù Đà Lạt hay sương mù ký ức đã phủ lên cuộc tình của họ, chỉ biết rằng họ từng là những kẻ yêu trước khi thành chồng vợ.
Đọc cuốn Nam Phương hoàng hậu cuối cùng của Lý Nhân Phan Thứ Lang mới được phát hành, chúng ta cũng có thể thấy được rằng, vào thời ấy, những câu chuyện tình yêu của những người nổi tiếng, không phải lúc nào cũng ồn ào một cách chủ ý. Đặc biệt là với nữ giới.
Chậm rãi giữa những trang sách, chúng ta dễ nhận thấy "tâm trạng khi yêu" của Bảo Đại, còn về phía Nguyễn Hữu Thị Lan, chỉ có thể thấy những đường nét mờ ảo, ẩn khuất. Dường như, chưa bao giờ bà Nam Phương nói rõ tình yêu của mình với Bảo Đại, mà qua những ý tứ hé mở, chúng ta thấy đấy như là một định mệnh. Như chính lời bà nói, về sau này: "Việc này là do Chúa định, tôi biết làm sao được" (!)
Việc này, tức là việc bà đồng ý làm vợ vua Bảo Đại, khi hai người khác đạo, khi vị vua trẻ nổi tiếng là ham chơi và đào hoa. Và, mặc cho những ngăn cản, định kiến từ gia đình nhà trai, một đám cưới theo nghi thức mới cũng được cử hành vào ngày 20/3/1934 tại Điện Dưỡng Tâm (Tử Cấm Thành - Huế).
Năm đó, Bảo Đại 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan vừa 20 tuổi. Theo Lý Nhân Phan Thứ Lang thì những nguồn tin cũng như những tài liệu mà ông nắm được, cho biết Nguyễn Hữu Thị Lan đã chủ động đặt những thỏa thuận, mà chưa từng có trong cung đình.
Thứ nhất là giải tán tam cung lục viện, không còn chuyện năm thê bảy thiếp nữa. Thứ hai, hoàng đế phải tấn phong hoàng hậu sau khi cưới, chứ không phải được phong sau khi hoàng đế qua đời như xưa cũ. Thứ ba, con trai sinh ra phải được phong là thái tử. Đó là những thay đổi theo tinh thần văn minh, là ý thức mới của một người Tây học.
Tuy nhiên, có thể thấy việc tấn phong hoàng hậu, trước hết là tâm nguyện của Bảo Đại. Lúc này, ông còn rất yêu vợ và muốn làm một việc "chưa từng có trong triều đình". Nam Phương hoàng hậu, tức "Hương thơm miền Nam" là danh hiệu mà Bảo Đại dành tặng cho người vợ của mình với biết bao cảm xúc thương yêu, tôn trọng.
Tuy đã dẹp bỏ "tam cung lục viện", không còn cảnh "năm thê bảy thiếp", nhưng Bảo Đại vẫn "thói đa tình", sểnh ra khỏi nhà là có tình nhân.
Bảo Đại là vị vua nổi tiếng đào hoa.
Cuộc tình công khai và nổi tiếng nhất của Bảo Đại sau khi có với Nam Phương hoàng hậu mấy mặt con, là cuộc tình với vũ nữ Lý Lệ Hà. Đây là thời gian mà Bảo Đại được mời ra Hà Nội trong vai trò Cố vấn tối cao của Chính phủ Cách mạng lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đọc Nam Phương hoàng hậu cuối cùng, chúng ta thấy được những cảm xúc rất thật của một người phụ nữ khi biết chồng mình ngoại tình. Chúng ta như run rẩy theo những cảm xúc của bà. Và, chúng ta thấy thương yêu, kính trọng bà nhiều hơn, khi đọc những dòng bà viết cho "tình địch": "Em Lý Lệ Hà thân quý! Chị ở xa đức cựu hoàng mấy dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng chăm sóc cựu hoàng ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi cựu hoàng, còn gặp lại nhau. Đức Từ Cung thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị, Nam Phương".
Nội dung bức thư được cho là viết vào tháng 3/1946 khi Bảo Đại sang Trung Quốc rồi sang Hong Kong cùng Lý Lệ Hà. "Chị trọn kiếp nhớ ơn em", có lẽ cũng là trọn kiếp không quên chuyện này (!)
Bà Nam Phương cùng các con khi mới sang Pháp.
Nam Phương hoàng hậu cuối cùng, là điều mà Nam Phương có nghĩ tới chăng? Có lẽ là bà chưa từng nghĩ đến. Đầu tiên hay là cuối cùng thì bà cũng chỉ có một người yêu, một người chồng là ông Vĩnh Thụy, tức Bảo Đại.
Là một hoàng hậu, bà từng nghĩ là do Chúa định. Là một người vợ, sau Cách mạng tháng Tám, bà từng định ra Hà Nội cùng chồng, nhưng rồi ngại chính phủ lo phiền, ngại chồng bị gò bó, bà cam chịu một mình cùng các con ở cung An Định. Là một người từng đứng giữa ngã ba đường, bà vẫn một lòng lo lắng cho con, nghĩ tới tương lai của chúng. Là những tháng ngày cô độc ở nước Pháp, mà vẫn giữ hình ảnh đẹp với một tinh thần sống đẹp.
Hình ảnh của Nam Phương hoàng hậu, thật đúng với tinh thần câu thơ mà thi sĩ Tản Đà đã phóng bút tặng bà vào năm 1938.
"Cung duy mẫu đức nghi thiên hạ
Lạc đồ tiên nhân giáng tự trần"
(Đức độ của quốc mẫu thực xứng đáng làm gương cho thiên hạ
Vui mừng được thấy tiên đã giáng xuống cõi trần)
Như thế đó, Nam Phương hoàng hậu, qua hết thảy những đắng cay, cuối cùng còn lại là cái đẹp và tình yêu chân thành.
Theo Việt Sinh (Zing)
Những giai nhân tuyệt sắc từng đi qua cuộc đời ông hoàng Bảo Đại Vua Bảo Đại không chỉ nổi tiếng là ông vua cuối cùng của triều Nguyễn mà còn được biết đến là một ông hoàng lẫy lừng trong tình trường. Ông có đến 6 người vợ và nhân tình thì không đếm xuể, ai cũng là những trang giai nhân tuyệt sắc. Nguyễn Thị Hữu Lan - tên thật của Nam Phương hoàng hậu...