Bí mật đời sống tình dục của người đồng tính
Cũng giống như các cặp dị tính, tình dục là là một điều không thể thiếu trong mối quan hệ tình yêu giữa những người đồng giới. Tuy nhiên, có sự khác nhau trong chuyện tình dục giữa đồng tính nữ và đồng tính nam.
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Phạm Quỳnh Phương, tình dục vừa được coi là nhu cầu cá nhân, vừa được coi là cách thể hiện tình cảm với người mình yêu thương: “Dù là con gì, đông tính hay không đông tính đôi với môi con người thì tình dục là nhu câu, cũng là cái người ta thê hiên tình cảm, vì nêu nói vê nhu câu nêu không có đôi tượng thì có nhiêu hình thức đê thỏa mãn nhu câu đây, nhưng khi có đôi tượng là người yêu mình thì đó là cái đê thê hiên mình yêu thương người ta đên đâu” – một đồng tính nữ khi được hỏi đã nói như vậy.
Tiến sĩ Phương cũng cho biết, vai trò tình dục trong cuộc sống lứa đôi tương đối khác giữa nam và nữ đồng tính.
“Ở các cặp nữ đồng tính, tình dục luôn đi kèm với tình yêu và tình dục thường nghiêng về phía quan niệm coi đó là cách thể hiện tình cảm, tình yêu hơn là nhu cầu cá nhân. Cuộc sống chung phải là mối quan hệ trọn vẹn về cả thể chất lẫn tình cảm. Trong khi đó, tình dục ở các cặp nam đồng tính lại nghiêng nhiều về nhu cầu cá nhân hơn, phần nào cũng bởi mối cảm giác không có pháp luật bảo vệ và không có ràng buộc từ gia đình và xã hội. Do đó quan niệm về tình dục ngoài tình yêu, ngoài mối quan hệ gắn bó lâu dài tương đối cởi mở” – tiến sĩ Phương phân tích.
Nghiên cứu cũng biết, với một đôi đồng tính nam đã có mối quan hệ trên 20 năm thì cho rằng giai đoạn 20-30 tuổi việc được chung sống, quan hệ tình dục là điều quan trọng, nhưng ở lứa tuổi 40, họ chỉ mong muốn công ăn việc làm tốt và chăm lo cho bố mẹ hai bên. Điều này cũng phản ánh sự thay đổi thông thường về nhu cầu tình dục theo lứa tuổi.
Một điều không thể không nói đến, đó là do bị kỳ thị, người đồng tính không dám thể hiện tình cảm thực của mình ở nơi công cộng và phải thực hiện những hành vi tình dục với bạn tình ở những nơi không an toàn. Điều này khiến cho việc cung cấp thông tin và dịch vụ về các nguy cơ sức khỏe và hành vi tình dục an toàn hơn trở nên khó khăn hơn bởi vì nam giới không bộc lộ khuynh hướng và hành vi tình dục của mình cũng như các tổ chức và cá nhân làm việc trong lĩnh vực phòng chống HIV có thể không sẵn sàng hỗ trợ họ.
Đời sống tình dục của người đồng tính nam khác với đồng tính nữ – ảnh minh họa
Video đang HOT
Đồng tính vẫn mong có con nối dõi tông đường
Khảo sát về mong muốn có con trong nhóm người trả lời thuộc độ tuổi kết hôn và hiện đang trong một mối quan hệ cùng giới cho thấy: 61% cho biết họ mong muốn có con trong tương lai, 9% cho biết họ không muốn có con, và 30% còn lại chưa nghĩ hoặc chưa tính đến việc này.
Phân tích sâu hơn về mục đích và ý nghĩa của việc có con, có thể nhận thấy đa phần các cặp đôi nhận thấy việc có con sẽ giúp họ tăng cường tính gắn kết cho cuộc sống đôi lứa. Họ cũng nhận thấy sự tự tin về điều kiện kinh tế cũng như tâm lý để có con và nuôi dạy con tốt hay coi đây là trách nhiệm của bản thân với gia đình (61.3%).
Theo giới tính sinh học, nhóm nam có xu hướng mong muốn có con để thực hiện trách nhiệm với gia đình đến 82,9%, cao hơn hẳn nhóm nữ (50,7%). Tương tự như vậy, nam có xu hướng mong muốn có con đê đảm bảo cuọc sông khi vê già, có con cái chăm lo (51,4%) hơn so với nữ (32,4%). Có con để nối dõi tông đường và vừa lòng cha mẹ cũng là lý do mong muốn có con của nhóm nam (40%) hơn là nhóm nữ (11,3%).
Vì không thể sinh con một cách tự nhiên trong mối quan hệ đồng giới, các cặp đôi lựa chọn cho mình các hình thức đa dạng và tùy vào hoàn cảnh từng gia đình. Khá nhiều cặp đôi chọn cách đầu tư tình cảm, tài chính và công sức cho cháu mình để cháu có thể thay thế người con. Khoảng 1/5 số người tham gia phỏng vấn sâu có ý định có con đẻ của mình. Cũng có những cặp lại muốn nuôi con nuôi (nhận trẻ mồ côi) vì quan niệm cuộc sống có ích cho cộng đồng chứ không phải do họ không thể sinh đẻ.
Các nhà khoa học hiện đã không còn xem đồng tính hay song tính là một lựa chọn hay hành vi tập nhiễm. Nhiều người đã cố gắng thay đổi xu hướng tính dục nhưng không thành công. Tất cả các tổ chức lớn về sức khỏe tâm thần đều đã cảnh báo chính thức về những cái gọi là “liệu pháp thay đổi xu hướng tính dục”. Không có một nghiên cứu khoa học nào chứng minh những liệu pháp này là an toàn và hiệu quả.
Hơn nữa, việc xem đồng tính là một cái gì đó cần “chữa trị” là đi ngược lại với những hiểu biết khoa học được thừa nhận rộng rãi, và càng làm tăng định kiến và kì thị với người đồng tính. Nguyên nhân nào làm một người yêu người cùng giới thì cũng chính là nguyên nhân làm một người yêu người khác giới. Điều quan trọng là đồng tính, dị tính hay song tính đều là những xu hướng tính dục bình thường, tự nhiên của con người. Chính vì vậy, trên thế giới các nhà khoa học đã không còn tập trung nghiên cứu nguyên nhân tạo nên xu hướng tính dục nữa mà chuyển sang nghiên cứu ảnh hưởng của việc kì thị đồng tính và xóa bỏ những định kiến về đồng tính.
Theo Dantri
Đồng tính nam kết hôn sống lâu hơn
Các cặp đồng tính nam sống lâu hơn sau khi kết hôn, nhưng đồng tính nữ thì ngược lại, các nhà nghiên cứu Đan Mạch vừa cho biết.
Từ thập niên 90 của thế kỷ trước, tỷ lệ tử vong của nam giới trong số các cặp kết hôn đồng giới giảm đáng kể, trong khi phụ nữ đồng tính lấy nhau là nhóm có tỷ lệ tử vong cao nhất. Những cặp "ô môi" có hôn thú có nguy cơ chết trẻ vì tỷ lệ mắc ung thư vú hoặc tự tử cao hơn bình thường.
Những người đồng tính này thường chết khi tuổi còn khá trẻ vì họ dễ tự tử hoặc bị ung thư, nghiên cứu cho biết.
Đan Mạch là nước đầu tiên trên thế giới cho phép các cặp đồng tính đăng ký kết hôn từ năm 1989.
Tỷ lệ tử vong tăng nhanh đáng kể ở những cặp kết hôn đồng giới vài năm sau đó. Nhưng từ năm 1996, với sự tiến bộ trong phương pháp điều trị cho người HIV/AIDS, tỷ lệ tỷ vong đã giảm xuống thấp hơn so với nhóm nam giới chưa kết hôn hoặc ly dị.
Ngược lại, nghiên cứu cho biết phụ nữ kết hôn với phụ nữ có tỷ lệ tử vong cao hơn vì tự tử và ung thư.
Các cặp đồng tính nữ có tỷ lệ tử vong sớm hơn vì ung thư vú và tự tử
"Tỷ lệ tự tử và ung thư vú ở các cặp đồng tính nữ tăng mạnh, vì thế kết quả nghiên cứu của chúng tôi đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và đảm bảo những người này được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe đúng mức", TS. Morten Frisch ở Viện nghiên cứu Statens Serum tại Copenhagen và cũng là trưởng nhóm điều tra cho biết.
TS. Frisch và chuyên gia thống kê Jacob Simonsen dựa vào Hệ thống đăng ký công dân của Đan Mạch để theo dõi 6,5 triệu người trưởng thành ở Đan Mạch trong giai đoạn từ tháng 1/1982 - 9/2011.
Họ thấy rằng thay đổi đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là tỷ lệ tử vong ở nhóm kết hôn đồng giới.
Trong giai đoạn 2000 - 2011, phụ nữ Đan Mạch kết hôn đồng giới nổi lên là nhóm có tỷ lệ tử vong cao đáng chú ý.
Lâu nay, kết hôn vẫn được coi là có tác dụng giảm nguy cơ tử vong sớm. Nghiên cứu của TS. Frisch và đồng nghiệp cho thấy việc kết hôn hoặc sống với bạn tình khác giới là cách tốt nhất để sống lâu hơn.
Trong khi đó, nhóm dân số kết hôn với người khác giới ở các nước phương Tây ngày càng giảm, trong khi tỷ lệ sống độc thân và ly dị ngày càng tăng.
Tuy nhiên, chỉ kết hôn thôi chưa đủ. Những người kết hôn mà không sống với nhau thì không được lợi ích gì, mà ngược lại còn có nguy cơ tử vong cao gấp đôi so với những người sống chung với vợ/chồng.
Kết quả nghiên cứu vừa được đăng trên Tạp chí Dịch tễ học quốc tế.
Theo 24h
Lạc vào phòng se duyên của 'thế giới thứ ba' P hòng se duyên les (đồng tính nữ) và gay (đồng tính nam) được lập ra đã ngay lập tức thu hút đông đảo người đồng tính tham gia. Hơn chục năm trở lại đây, khái niệm "giới tính thứ 3" (đồng tính nam (gay), đồng tính nữ (lessbian) và lưỡng phái (bisexuality) đã dần được mọi người nghe nhiều, nhắc nhiều. Thậm...