Bi kịch xã xuất ngoại mang “ết” về
Không sống được bằng nghề biển, ruộng đất lại ít ỏi và bạc màu, phần lớn người dân xã biển Vinh Xuân (Phú Vang, Thừa Thiên – Huế) phải tha hương sang Lào làm thuê. Nhiều người sau một thời gian kiếm sống đã lê tấm thân tàn về quê do mắc HIV/AIDS, rồi làm lây lan cho nhiều người…
Nhà có 4 người mắc “ết”
Cái rét như cắt da khiến thân thể già nua của bà Võ Thị Lớn (87 tuổ.i) ở thôn Kế Võ bị hàn.h h.ạ bởi những cơn đau xương khớp. Ở cái tuổ.i “gần đất xa trời” như bà người ta được con cháu phụng dưỡng, còn bà hàng ngày vẫn phải bươn chải kiế.m tiề.n nuôi 2 đứa cháu nhiễm HIV. Trong ngôi nhà “rách xơ mướp” rộng chưa đầy 10m2, bà vừa trò chuyện với chúng tôi vừa khóc nghẹn. Những nếp nhăn chằng chịt trên khuôn mặt khắc khổ của bà xô nhau ép ra những giọt nước mắt buồn tủi.
Cuộc sống ở quê phải chạy ăn từng bữa nên anh Nguyễn Hữu M (SN 1970) – con trai bà Lớn – phải sang Lào làm thuê ngay sau khi cưới vợ. Nhờ chịu khó nên những ngày tảo tần nơi đất khách giúp M kiếm được ít tiề.n gửi về nuôi vợ và mẹ già. Tuy nhiên, trong một lần bị bạn bè lôi kéo, M quan hệ với gái mại dâm ở Lào rồi bị lây nhiễm HIV. Không biết mình mắc căn bệnh thế kỷ, nên những lần về thăm nhà, M đã làm lây nhiễm sang vợ mình là chị Võ Thị B (SN 1971).
Khi sức khỏe đã suy kiệt, M lê tấm thân tàn về quê rồi đi bệnh viện khám mới biết mình đã mắc HIV giai đoạn cuối. Lúc này, chị B cùng 2 con trai là Nguyễn Hữu Ph (SN 1996) và Nguyễn Hữu B (SN 1998) hoảng hốt đến cơ sở y tế xét nghiệm thì kết quả cả 3 mẹ con đều bị mắc HIV. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, anh M khuất núi. 4 năm sau, 2 đứa con dại của vợ chồng anh cũng đội tang mẹ khi tuổ.i đời còn rất nhỏ. Từ đó, bà Lớn phải thay vợ chồng con trai tần tảo nuôi 2 đứa cháu mang trong mình căn bệnh thế kỷ.
Tuổ.i cao sức yếu nhưng bà Võ Thị Lớn vẫn phải tần tảo nuôi 2 đứa cháu mắc “ết”.
“Mấy ngày ni trời rét, thân thể tui đau nhức nên không mần chi ra tiề.n. Hai đứa cháu mắc bệnh hiểm, áo quần không đủ ấm, tui trông mà chảy nước mắt”- bà Lớn nói nghẹn lời. Hiện 2 đứa cháu của bà Lớn một đứa học lớp 10, đứa còn lại học lớp 8. “Tụi cháu muốn được kéo dài sự sống và tiếp tục học chữ để sau ni kiếm được việc làm phụng dưỡng bà. Nhưng hoàn cảnh như ri không biết ngày mai sẽ ra sao” – em Nguyễn Hữu Ph tâm sự với cặp mắt đỏ hoe.
Nỗi đau lan rộng
Cái chế.t của vợ chồng anh M là những cái chế.t vì “ết” đầu tiên ở Vinh Xuân. Sau ngày cặp vợ chồng nghèo này khuất núi, hàng loạt gia đình có người đi Lào làm thuê ở xã biển này mới giật mình lo lắng. Rồi họ hoang mang khi thấy người thân của mình sau một thời gian xuất ngoại trở về với thân thể tàn tạ vì đau ốm, uống đủ loại thuố.c vẫn không khỏi. Những triệu chứng ấy giống vợ chồng anh M trước ngày tạ thế nên nhiều gia đình khuyên người thân của mình đi xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm khiến nhiều gia đình đa.u đớ.n, tuyệ.t vọn.g.
Bên tuyến tỉnh lộ chạy qua thôn Xuân Thiên Hạ, có một ngôi nhà cấp bốn xập xệ đóng cửa kín mít. Một ông cụ chống gậy bước khập khiễng trên đường, nói ngôi nhà này bỏ hoang nhiều năm rồi. “Đó là nhà anh Phạm Ch, cả vợ lẫn chồng đều đã chế.t vì “ết”, con cái phiêu bạt mỗi đứa một nơi” – ông cụ kể bằng giọng ngắt quãng sau tiếng thở dài. Cũng như rất nhiều đàn ông trong thôn, anh Ch phải sang Lào kiếm miếng ăn cho gia đình. Sau một thời gian nai lưng làm thuê nơi đất khách, anh Ch trở về quê với thân thể tiều tụy, l.ở loé.t.
Nghĩ chồng đổ bệnh do lao lực quá sức, chị Võ Thị L – vợ anh, mua đủ loại thuố.c men cho chồng nhưng vô ích. Nghe tin một số người ở xã xuất ngoại làm thuê trở về bị mắc “ết” vì quan hệ với gái mại dâm, chị L đưa chồng đi khám thì kết quả chồng chị bị mắc HIV giai đoạn cuối. Nỗi đau gấp bội khi sau đó kết quả xét nghiệm cho thấy chị L bị nhiễm HIV từ chồng mình. Cách đây 4 năm, sau khi chồng qua đời một thời gian ngắn, chị L cũng bị căn bệnh thế kỷ vật ngã. Phải đội tang cha mẹ khi tuổ.i đời còn nhỏ và trước sự kỳ thị của hàng xóm, 3 người con của vợ chồng anh Ch bỏ quê đi biệt xứ.
Cạnh nhà anh Ch là ngôi nhà của anh Phạm S – em ruột anh Ch. Ngôi nhà này từ nhiều năm nay chỉ có 2 đứ.a tr.ẻ và một bà cụ 82 tuổ.i sinh sống. Anh S cũng chế.t vì mắc “ết” như anh trai mình sau khi sang Lào làm thuê. Sau ngày anh S chế.t, vợ anh là chị Hồ Thị Th cùng người con gái đầu bỏ quê đi biệt xứ, để lại hai đứa con nhỏ và bà mẹ chồng đã già nua.
Video đang HOT
Ngoài các trường hợp chế.t vì “ết” như vợ chồng anh Ch, anh S, ông Nguyễn Ngọc Từ – Trưởng thôn Xuân Thiên Hạ còn kể cho chúng tôi nhiều trường hợp khác ở thôn đã qua đời vì căn bệnh thế kỷ sau khi xuất ngoại làm thuê. “Đến nay thôn đã có 7 trường hợp chế.t vì HIV trong số hơn 10 trường hợp mắc bệnh. Những trường hợp mắc “ết” ở đây chúng tôi chủ yếu nắm được khi họ t.ử von.g” – ông Từ cho biết. Lần theo sự chỉ dẫn của ông Từ, chúng tôi chứng kiến nhiều gia đình khánh kiệt, ly tán vì căn bệnh thế kỷ ở thôn. Tại các thôn Kế Võ, Xuân Thiên Thượng… cũng có nhiều người mắc và chế.t vì HIV/AIDS do xuất ngoại làm thuê.
Tiến thoái lưỡng nan
Nói về nguyên nhân khiến người dân ở thôn ồ ạt xuất ngoại làm thuê để rồi nhiều người rước căn bệnh thế kỷ về quê, ông Nguyễn Ngọc Từ bảo mọi chuyện bắt đầu từ việc cuộc sống ở quê quá khó khăn. “Ruộng đất ở đây ít ỏi và toàn là cát bạc màu, bị nhiễm mặn, đã vậy việc sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên vì không có công trình thủy lợi. Nghề biển cũng không sống được nên kinh tế bà con rất khó khăn. Vì rứa mà hiện toàn thôn có khoảng 500 người sang Lào và vào các tỉnh miền Nam kiếm sống” – ông Từ nói.
“Sự khắc nghiệt của thiên nhiên khiến người dân nơi đây không thể vươn lên bằng sản xuất nông nghiệp. Phong trào ly hương giúp nhiều gia đình có cái để đắp đổi qua ngày nhưng cũng kéo theo rất nhiều hệ lụy đau lòng” -
Ông Trần Văn Đê
Người dân ồ ạt ly hương mưu sinh khiến thôn Xuân Thiên Hạ cũng như các thôn khác của xã Vinh Xuân nhiều năm nay chủ yếu còn lại người già, phụ nữ và trẻ nhỏ. Nhiều người già, phụ nữ ở đây kể trong nước mắt rằng việc chồng con tần tảo nơi đất khách quê người khiến họ luôn lo lắng đến mất ăn mất ngủ.
“Không lo sao được khi mà hàng loạt người dân địa phương, trong đó có chồng tui, sau một thời gian phiêu bạt xa xứ đã trở về quê với căn bệnh thế kỷ và làm lây lan sang vợ con mình” – chị Phạm Thị T (thôn Xuân Thiên Hạ) – người có chồng vừa qua đời vì “ết” sau khi sang Lào làm thuê – tâm sự.
Ông Trần Văn Đê – Chủ tịch UBND xã Vinh Xuân cho biết, phong trào người dân trên địa bàn đi làm thuê nơi xa, nhất là sang Lào, có từ năm 1990 và rộ lên những năm 2006 trở lại đây. Đến thời điểm hiện tại, toàn xã có gần 3.000 người ly hương làm thuê, chiếm hơn 1/3 dân số của xã. Từ khi người dân đổ xô ly hương kiếm sống, nhất là đi Lào, trên địa bàn xã xuất hiện nhiều người mắc và chế.t vì HIV. Đến thời điểm hiện tại, theo số liệu mà xã nắm được, địa phương đã có 14 người mắc HIV, trong đó rất nhiều người đã t.ử von.g.
Theo 24h
Nhờ hoá chất, ruồi không dám bén mảng đến mực khô, cá khô
Hầu hết các hộ phơi cá, mực ở xã Hải Bình, Hải Thanh, Hải Ninh (Tĩnh Gia, Thanh Hoá) đều sử dụng hoá chất để ruồi muỗi, nấm mốc không dám "bén mảng"...
Để tìm hiểu vấn đề trên, phóng viên đã có mặt tại xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia. Vốn là một xã ven biển, người dân ở đây chủ yếu sống nhờ vào nghề biển. Hiện địa phương này có khoảng 5.000 người trong độ tuổ.i lao động, thì có tới 2.000 người trực tiếp làm nghề khai thác, đán.h bắt và chế biến thuỷ hải sản.
Cá thu mua về được ngâm vào bể nước.
Theo thống kê của chính quyền địa phương, cả xã có trên 30 doanh nghiệp, tổ chế biến với sản lượng khai thác nội địa 1.500 tấn/năm và đán.h bắt, thu mua ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ với sản lượng 50 - 60 nghìn tấn/năm. Được biết xã Hải Bình là một trong những nơi tập trung thu mua, chế biến cá lớn nhất tỉnh Thanh Hóa. Mỗi ngày có hàng trăm lao động địa phương tham gia vào chế biến cá cho các xưởng thu gom, chế biến quy mô lớn, nhỏ.
Trong vai một người dân đến hỏi đường, chúng tôi ghé thăm lò sấy mực của gia đình anh B ở thôn Liên Hưng, xã Hải Bình, gia đình anh B có 3 lò sấy mực mỗi ngày cho ra từ 5 - 6 tạ mực khô. Sau một hồi lân la hỏi chuyện, anh B cũng "bật mí" về các công đoạn và cách chế biến để có được sản phẩm mực cho màu vàng thì hầu như người dân đều dùng diêm sinh (hay còn gọi là chất lưu huỳnh).
Sau đó được sơ chế.
Bên cạnh sản phẩm đã sơ chế là đống phụ phẩm đầy ruồi.
Mực sau khi thu mua về được làm sạch, sau đó cho vào lò. Mỗi lò sấy thường để 3 bếp than to, một bếp 4 đến 5 hòn than, sau đó đặt một bát lưu huỳnh lên trên, khói của lưu huỳnh bốc lên bám vào thân mực sẽ giúp cho mực óng vàng rất bắt mắt và đặc biệt, chống được ẩm, mốc.
Vào thời điểm mùa đông hay mùa mưa, các cơ sở chế biến hải sản thường dùng lượng diêm sinh nhiều hơn bình thường mới bảo quản được sản phẩm. Tuy nhiên, sản phẩm sau khi được sơ chế, thay cho mùi thơm tự nhiên của mực khô là mùi khét, khai khái của chất lưu huỳnh còn bám lại.
Ngoài sản phẩm mực, người dân nơi đây còn chế biến cả các sản phẩm hải sản khác như cá nục khô và cá chỉ vàng. Theo người dân nơi đây cho biết, phần lớn cá sau khi thu mua về được ngâm nước muối trước khi làm sạch mang phơi nên không phải dùng một loại hoá chất nào.
Mực đã qua bước sơ chế, đang được phơi ráo nước...
Tuy nhiên, trên thực tế, qua tìm hiểu thì hầu hết các hộ phơi cá ở đây đều sử dụng chất chống ruồi, muỗi. Theo những người làm nghề ở đây thì bản thân họ sử dụng các loại hóa chất cũng không biết nó là chất gì và mức độ độc hại như thế nào, nhưng mỗi lần dùng thuố.c thì ruồi, muỗi không dám "bén mảng" đến gần. Trong khi đó, các loại phế phẩm được cắ.t đầ.u vứt bỏ bên cạnh thì ruồi muỗi bu kín đặc.
Quy trình chế biến sản phẩm cá nục khô rất đơn giản. Cá sau khi được rửa qua rồi m.ổ bụn.g, xếp lên khay, trước khi mang ra phơi được tẩm một lượt thuố.c lên bề mặt. Sau một nắng lại tiếp tục quét lượt thuố.c khác. Đối với những gia đình có điều kiện thì đổ cả mẻ cá vào chậu, nhúng cá qua một lần đem ra phơi thì không phải tốn công bôi lần hai nữa.
Và được đưa vào lò sấy.
Người dân địa phương muốn ăn cá, mực khô hay muốn biếu tặng người thân thì phải tự tay mua cá tươi, mực tươi về chế biến lấy. Vì biết quá rõ công đoạn chế biến cá khô mực khô phải dùng diêm sinh và hóa chất nên hầu hết, các hộ dân ở đây chỉ tham gia chế biến còn họ không ăn hải sản qua công đoạn chế biến như trên.
Ngoài xã Hải Bình, trên địa bàn huyện Tĩnh Gia còn có các xã như: Hải Thanh, Hải Ninh cũng có nhiều cơ sở chế biến thủy hải sản khô. Nguồn hàng hải sản ở đây có nhiều chủng loại khác nhau và được xuất đi tiêu thụ ở nhiều địa phương khác và cả xuất đi nước ngoài.
Liên quan đến vấn đề trên, ngày 14/11/2012, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, thuộc Sở NN&PTNT tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành lấy 8 mẫu cá, mực ở các xã Hải Thanh, Hải Bình, huyện Tĩnh Gia để gửi đi kiểm nghiệm.
Sau khi ra lò, mực có màu đỏ vàng, không giống màu mực được phơi tự nhiên.
Quy trình lấy mẫu được thực hiện ở cả 3 giai đoạn: Giai đoạn đầu vào (cá từ thuyền vào bến), giai đoạn chế biến (cá được làm sạch, tẩm, ướp, hấp, sấy, phơi khô...) và giai đoạn thành phẩm. Việc lấy mẫu ở cả ba giai đoạn để xác định dư lượng các chất kháng sinh, chất bảo quản nếu được sử dụng thì sử dụng ở giai đoạn nào và vượt ngưỡng như thế nào.
Hiện các cơ quan chức năng vẫn đang tiến hành kiểm tra và kiểm nghiệm các sản phẩm chế biến từ hải sản được cho là có sử dụng hóa chất trong quá trình sơ chế.
Sản phẩm cá nục khô được phơi dọc bờ biển.
Theo Dantri
Miền Tây sau 15 năm bão Linda Tròn 15 năm kể từ khi cơn bão "thế kỷ" mang tên Linda quét qua vùng biển Cà Mau - Kiên Giang và vịnh Thái Lan khiến hơn 4.500 ngư dân thiệ.t mạn.g. Giấc mơ biển cả của những người đi mãi không về năm đó giờ đang được chính con em họ tiếp nối... Nguyễn Bão Biển: "Con rất thích và sẽ...