Bí ẩn hai ngôi mộ cổ bị xiềng xích ở Đà Nẵng
Bị triều đình nhà Nguyễn khép vào tội “phản nghịch”, ngôi mộ của vị này đã bị chính quyền bấy giờ xiềng lại bằng một sợi xích.
Từ những năm cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ XX, những cư dân sinh sống ở vùng đất nằm về phía tây bắc của huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng đã phát hiện thấy sự kỳ lạ của 2 ngôi mộ cổ bị xiềng xích sắt nằm ở nơi rất heo hút giữa cỏ tranh ngút ngàn.
Một nằm trên đất của làng Vân Dương, xã Hòa Liên và một nằm trên đất của làng Khê Lâm, xã Hòa Sơn. Các bậc cao niên ở hai làng này thường kể lại với con cháu của mình rằng: Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, quan chức địa phương dường như cấm tiệt người dân trong làng bén mảng đến gần 2 ngôi mộ bị xích và cũng không có ai trong làng dám nhận người nằm dưới mộ là họ hàng thân thích của mình vì sợ nhiều hệ lụy.
Tuy nhiên, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng ở huyện Hòa Vang đã cử phái đoàn mang hương hoa đến vái tạ và làm lễ chặt bỏ những sợi xích đã một thời gian dài xiềng ngang trên 2 ngôi mộ cổ này để “giải phóng cho linh hồn của người đã khuất…”, đồng thời cũng công khai một cách rõ ràng nhân thân và công trạng của người nằm dưới mộ để cho nhiều người biết, để cho con cháu của những người này nhận mộ tu sửa, hương khói sớm chiều…
Theo lời kể của các ông Hồ Như Kỷ và Hồ Như Sơn ở làng Vân Dương thì họ gọi người nằm dưới ngôi mộ là ông cố nội. Hai người chắt nội này còn cho biết rất tường tận rằng, ông cố nội của họ là chiến tướng Hồ Học, quê ở làng Vân Dương, tổng An Hòa, huyện Hòa Vang (nay là huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng).
Ông là người sớm có tinh thần yêu nước và chống Pháp một cách quyết liệt. Hưởng ứng phong trào Nghĩa Hội ở Quảng Nam. Hồ Học đã ra sức chiêu mộ nghĩa binh đến cả nghìn người, tự trang bị các loại vũ khí để phục kích đánh Pháp.
Lúc bấy giờ, trên khắp địa bàn huyện Hòa Vang, quân của Hồ Học đóng ở đâu cũng được bà con nhân dân ủng hộ không những về mặt tinh thần mà còn góp thêm thóc gạo, heo gà, tiền bạc để duy trì chiến đấu. Chính Hồ Học là người đã chỉ huy một toán quân mật phục trên đỉnh đèo Hải Vân để tiêu diệt tên đại úy Besson và đơn vị lính do Besson làm chỉ huy ở Trạm Nam Chơn vào ngày 1/3/1886.
Hưởng ứng phong trào Cần Vương ở Quảng Nam (hay còn gọi là phong trào Nghĩa Hội ở Quảng Nam), Hồ Học đã mang theo quân lính của mình để gia nhập vào đoàn quân của thủ lĩnh phong trào Nghĩa Hội Trần Văn Dư và vị tướng tài số một của Nghĩa Hội, Quảng Nam là Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành).
Ông Trần Văn Dư sinh năm 1839, quê ở làng An Mỹ Tây, huyện Tam Kỳ (nay thuộc phường Tam An, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Ông đỗ tiến sĩ năm 1875, làm Án sát Hà Tĩnh, Giảng tập ở Dưỡng Thiện đường dạy cho hai hoàng tử Ưng Đăng và Chánh Mông (sau này là vua Dục Đức và Đồng Khánh), rồi ông được bổ làm Chánh sứ Sơn phòng Quảng Nam.
Năm 1885, ông hưởng ứng phong trào Cần Vương đánh chiếm tỉnh thành Quảng Nam ở La Qua (Điện Bàn ngày nay). Tháng 12/1885, do quá tin vào tình nghĩa thầy trò với Vua Đồng Khánh nên ông đã thuận tình lên đường ra Huế để thương thuyết và vì vậy mà đã bị Châu Đình Kế – Tuần vũ Quảng Nam mượn tay thực dân Pháp sát hại tại Điện Bàn vào ngày 13/12/1885.
Vào cuối năm 1886, quân Pháp và quân Nam triều dưới sự chỉ huy của viên đại tá Braxcini mở cuộc hành quân lên Ái Nghĩa thuộc huyện Đại Lộc (Quảng Nam) để truy lùng quân của Nghĩa Hội. Các chiến tướng của Nghĩa Hội đã đem quân mai phục ở những địa thế hiểm trở, chờ đến nửa đêm khi quân địch đang mệt mỏi ngủ say thì bất ngờ tấn công. Bị đánh bất ngờ, địch phải mở đường máu để chạy về Thu Bồn dựa vào quân Pháp đang đồn trú tại đây.
Thừa thắng xông lên, quân của Nghĩa Hội xông thẳng vào đồn giặc, đánh dồn dập làm địch ở đây trở tay không kịp đành phải kéo nhau bỏ Thu Bồn chạy dài về Đà Nẵng. Quân của chiến tướng Hồ Học đã mở cửa nhà tù để giải phóng cho những người yêu nước bị giặc bắt giam, đa số những người này sau khi thoát khỏi ngục tù đã tham gia vào phong trào Nghĩa Hội.
Sau khi Trần Văn Dư bị sát hại, đầu năm 1886, Nguyễn Duy Hiệu đã thay thế để làm hội chủ. Giai đoạn này, phong trào phát triển rất mạnh, các chiến tướng cùng với nghĩa binh của mình lập nên nhiều phòng tuyến và gần như làm chủ toàn bộ vùng nông thôn. Hồ Học là người chỉ huy dũng cảm, có tài cầm quân, đánh thắng quân Pháp nhiều trận nên tiếng tăm lẫy lừng.
Hội chủ Nguyễn Duy Hiệu đã giao cho ông quản lý vùng đất đai rộng lớn từ đèo Hải Vân đến An Ngãi Đông. Lợi dụng địa hình đồi núi hiểm trở, ông đã xây nhiều đồn lũy thành một thế trận liên hoàn, hỗ trợ lẫn nhau trong phòng thủ và tấn công.
Trong một trận đánh ở Hố Chiếu, quân Pháp đông gấp 4 lần nghĩa quân, lại có quân tiếp viện, nên nghĩa quân chỉ cầm cự được một ngày thì đồn luỹ bị đại bác của chúng san phẳng. Hồ Học cùng nhiều tướng lĩnh của ông như Tán Bùi, ông Đốc Sành, ông Lãnh Địa, Cai Á, Cai Cải đều bị chúng bắt. Chúng giải ông về Ty Niết (tức Ty án sát của Nam triều) ở Hội An tra hỏi.
Đích thân một viên đại tá Pháp từ Hà Nội vào cùng với viên án sát Quảng Nam hỏi cung chiến tướng Hồ Học. Chúng dụ dỗ ông khai báo nơi ở của thủ lĩnh Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến và các bí mật của Nghĩa Hội thì nghĩa quân sẽ được tha. Hồ Học đã giận dữ quăng cả chiếc ghế vào tên đại tá Pháp.
Video đang HOT
Chiếc ghế vừa quăng đi, bọn lính bảo vệ đã bắn chết ông. Giặc Pháp còn giết các ông Tán Bùi, Đốc Lãnh, Lãnh Trinh, Cai Á, Cai Cải. Chúng chặt đầu các ông bỏ vào giỏ treo để “bêu đầu thị chúng” trên bờ sông của làng Lai Nghi (gần Hội An) để uy hiếp nhân dân.
Phải đến 10 ngày sau, những nghĩa binh thân tín của ông mới lấy được xác mang về giao cho người nhà chôn cất tại làng Vân Dương.
Do chiến tướng Hồ Học là người bị triều đình nhà Nguyễn khép vào tội “phản nghịch” vì vậy ngôi mộ của ông đã bị chính quyền lúc bấy giờ xiềng lại bằng một sợi xích. Hiện tại, mộ của chiến tướng Hồ Học đã được đưa về Nghĩa trang xã Hòa Liên để hương khói, chăm sóc.
Mộ Quan Khâm Nguyễn Hữu Lịch và phu nhân tại quê nhà Khê Lâm.
Về ngôi mộ cổ bị xiềng ở làng Khê Lâm, xã Hòa Sơn cũng có rất nhiều bí ẩn mà phải đến sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền Việt Minh của huyện Hòa Vang đến làm lễ phá xiềng thì nhiều người mới tỏ tường danh phận của người nằm dưới mộ.
Trước đó, không những không ai dám bén mảng đến gần ngôi mộ mà nhiều người cũng chỉ rỉ tai nhau rằng, ngôi mộ bị xiềng xích sắt ấy chính là mộ phần của Quan Khâm Nguyễn Hữu Lịch – một người chống Pháp và ủng hộ triệt để phong trào Cần Vương.
Theo tác giả Lâm Quang Thạnh (chắt ngoại của Quan Khâm Nguyễn Hữu Lịch) trong bài “Gương hiếu học, yêu nước của một triều thần” thì Nguyễn Hữu Lịch thường được gọi là Quan Khâm, quê ở làng Khê Lâm, tổng Phước Tường thượng (nay là xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang). Tổ tiên của ông vốn là người đất Hải Dương theo chân Vua Lê Thánh Tông vào nam mở cõi và ngụ lại ở làng Thanh Quýt, thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đến đời thứ 8, ông Nguyễn Hữu Sao di cư đến vùng đất bán sơn địa nằm về phía tây bắc của huyện Hòa Vang để khai hoang lập hóa và được sắc phong là tiền hiền của làng Khê Lâm. Ông có 6 người cháu nội, người thứ 3 là Nguyễn Hữu Lịch rất ham học và được thân sinh là ông Nguyễn Hữu Thành rất ưu tiên, chắt chiu từng đồng bạc để lo cho chuyện học hành.
Ở nơi sinh cơ lập nghiệp không có thầy giỏi, ông Thành khăn gói mang con về quê cũ ở Thanh Quýt để tìm thầy. Rồi Nguyễn Hữu Lịch xin cha vượt sông Túy Loan, vào tận Đại Lộc để tìm thầy giỏi xin theo học. Năm 1868, Lần thứ hai Nguyễn Hữu Lịch vượt Ải Vân quan để ra kinh ứng thi và đỗ cử nhân.
Người học trò nghèo đã trở về quê nhà trong sự đón tiếp của dân làng vô cùng trịnh trọng. Sau đó, ông trở lại kinh đô để nhận nhiệm vụ ở Bộ Binh dưới trướng của Thượng thư Tôn Thất Thuyết, rồi dần thăng đến chức Lang Trung.
Ông Lâm Quang Thạnh kể rằng: Mỗi lần ở Huế về thăm nhà, người dân quê đều cảm phục đức độ của ông với tổ tiên, ông bà và bà con hàng xóm. Lần đầu về quê bằng kiệu qua đèo Hải Vân, vào đến quê mẹ Khánh Sơn là ông xuống kiệu đi bộ.
Dân làng lấy chiếu trải xuống đường đón rước, ông không bước lên chiếu và ôn tồn nói: “Các cụ, các bác đừng làm thế, tôi là cháu ngoại làng ta, con cháu trong nhà cả mà”. Dân làng cảm động không giữ lễ nghi cách biệt nữa.
Với giới trẻ, ông khuyên cố gắng học hành, quê mình nghèo, nước mình đang gặp nạn cần đến tài năng tuổi trẻ. Ông luôn nhấn mạnh đến quốc nạn. Lúc bấy giờ quân Pháp đã chiếm xong lục tỉnh Nam Kỳ và đưa quân ra đánh Bắc Kỳ. Trong triều chia làm 2 phái chủ chiến và chủ hòa, ông tích cực đứng về phái chủ chiến của Thượng thư Tôn Thất Thuyết.
Giữa lúc đó, Vua Tự Đức băng hà, quân Pháp thừa cơ kéo hạm đội đến đánh chiếm cửa biển Thuận An, khiến triều đình hoảng hốt ký Điều ước Hác-măng nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và cắt 3 tỉnh Thanh – Nghệ – Tĩnh nhập vào Bắc Kỳ trao cho quân Pháp. Phái chủ hòa đã đành phải đầu hàng, quân Pháp lấn tới đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 buộc triều đình phải ký Hiệp ước Pa-tơ-nốt (năm 1884) đặt cơ sở lâu dài cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam.
Để xoa dịu phái chủ chiến, Hiệp ước Pa-tơ-nốt có điều khoản trả lại 3 tỉnh Thanh – Nghệ – Tĩnh cho Trung Kỳ. Nhân cơ hội đó, Thượng thư Tôn Thất Thuyết tiến cử Lang Trung Nguyễn Hữu Lịch làm Khâm sai Thanh – Nghệ – Tĩnh sung Đổng lý tỉnh Thanh Hóa. Phái chủ hòa cho đó cũng là dịp phân tán lực lượng của phái chủ chiến nên cũng thuận tình không phản đối.
Ra Thanh Hóa, Quan Khâm Nguyễn Hữu Lịch bắt tay ngay thực hiện kế hoạch chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Ông đã xây dựng nhiều đồn sơn phòng, ở miền Tây cả ba tỉnh Thanh – Nghệ – Tĩnh, lập các đội quân “Đoàn kiệt” và “Phấn nghĩa” ra sức luyện tập chờ ngày quyết chiến với quân thù. Trên cương vị Khâm sai, ông đã vào Hà Tĩnh viếng thăm Tiến sĩ Phan Đình Phùng cùng làm quan trong triều vì xung đột giữa phái chủ chiến và chủ hòa phế lập các vua, bị cách chức về quê.
Đến khi Vua Hàm Nghi ra Tân Sở xuống hịch Cần Vương, Phan Đình Phùng hưởng ứng phất cờ khởi nghĩa Hương Khê; Phạm Bành, Đinh Công Tráng khởi nghĩa ở Ba Đình, Thanh Hóa, ông đã có nhiều hoạt động bí mật hỗ trợ. Ông đã dồn sức giúp đỡ xây dựng một cứ điểm kiên cố để chỉ đạo thống nhất toàn tỉnh và một căn cứ hậu bị đề phòng rút lui khi cần. Đó là cứ điểm Ba Đình giữa vùng chiêm trũng mênh mông và căn cứ sơn phòng Mã Cao trên vùng núi trùng điệp phía tây.
Năm 1887, nghĩa quân Thanh Hóa thất bại ở Ba Đình rút lên Mã Cao, thực dân Pháp cũng bị thiệt hại nặng nề khi phải huy động đến 3.000 quân thuộc mọi binh chủng, có trọng pháo và pháo hạm yểm hộ ngày đêm vây hãm mới đánh chiếm được Ba Đình.
Chúng đã hèn mạt trả thù bằng cách triệt hạ cả 3 làng Mỹ Khê, Thượng Thọ và Mậu Thịnh xóa tên trên bản đồ của Nam Triều và bắt triều đình hoạch tội Đổng lý Nguyễn Hữu Lịch bằng bản án tuyên vắng mặt “Tam ban triều điển” (gồm chén thuốc độc, một dải lụa để tự thắt cổ và một thanh kiếm để tự sát).
Ông đã bình thản đón nhận 3 vật “tam ban” từ Huế mang ra (do Vua Đồng Khánh ban cho để tự chọn). Không hướng về Kinh thành mà hướng về căn cứ sơn phòng Phú Gia (huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) nơi Vua Hàm Nghi đang ngự tránh, bên cạnh khu Ngàn Trươi của nghĩa quân Phan Đình Phùng kính cẩn vái lạy. Song, ông quay lại phía thuộc hạ lưu luyến làm hiệu vĩnh biệt rồi bưng “tam ban” vào phòng đóng chặt cửa.
Sáng hôm sau phá cửa vào thấy ông đã dùng kiếm tự sát trong tư thế ngồi uy nghi lẫm liệt. Một cái chết bi hùng kết thúc cuộc đời cương trực của một chí sĩ chống Pháp kiên cường giữa chốn triều đình bán nước. Ấy là vào năm Đinh Hợi – 1887 trước năm Vua Hàm Nghi sa lưới giặc bị đày sang Algerie.
Những ngày sau đó, một thuộc hạ thân cận của ông đã cẩn thận đánh dấu phần mộ nhưng mãi năm sau mới dám đưa con trai ông là Nguyễn Hữu Sinh từ Quảng Nam lặn lội ra Thanh Hóa nhận mộ. Một nấm cỏ xanh rờn giữa bốn bề vắng lặng, không bia mộ, không hương khói trong thành nội Thanh Hóa…
Phải chờ đến hết đời Đồng Khánh đến Vua Thành Thái khi các cuộc khởi nghĩa của Phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh chấm dứt, con cháu ông mới bí mật ra Thanh Hóa bốc mộ đưa hài cốt về Khê Lâm. Mộ ông ở quê nhà cũng chỉ là mộ đất không đặt bia để giữ bí mật nhưng không ngờ một hôm quân lính triều đình đã mang xiềng xích sắt và tập hợp hương hào, tổng lý kéo đến xiềng mộ ông giao cho địa phương quản thúc phần hài cốt lẫn vong linh.
Năm 2009, tấm gương hiếu học của nhà khoa bảng xuất thân là học trò nghèo vùng quê bán sơn địa cùng với tấm gương nhà yêu nước của Quan Khâm Nguyễn Hữu Lịch chính thức được ghi vào cuốn “Lịch sử đấu tranh cách mạng” của nhân dân xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng”.
Theo VTC
Dấu tích kho vàng của vua Hàm Nghi trên đất Minh Hóa
Rời kinh thành Huế, vua Hàm Nghi đến đất Minh Hóa (Quảng Bình) triển khai phong trào Cần Vương chống giặc Pháp. Khi phong trào thất bại, vua bị bắt, nhưng những câu chuyện cùng với kho báu của vua vẫn được người dân lưu truyền.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu ghi lại, giữa tháng 10 năm Ất Dậu (1885), vua Hàm Nghi cùng triều đình từ đồn Sơn Phòng, tỉnh Hà Tĩnh di giá về Cơ Sa - Kim Linh, huyện Minh Hóa bây giờ. Vua và quan quân triều đình ngự giá đầu tiên ở xóm Sạt (nay là tiểu khu 3, thị trấn Quy Đạt) ba ngày ba đêm. Tại đây, vua phong cho ông Đinh Văn Nguyên làm chức Các Lộ Chiến cùng với đội nghĩa quân người Nguồn của mình canh gác, bảo vệ nhà vua. Sau đó, vua di giá về xóm Đồng Nguyên (thôn Cổ Liêm, xã Tân Hóa) một đêm rồi về lại xóm Lim (thôn Ba Nương, xã Xuân Hóa) ở 8 ngày đêm.
Vua Hàm Nghi. Ảnh tư liệu.
Ông Đinh Sâm, 81 tuổi ở làng Ba Nương kể, trong những ngày ở xóm Lim, vua Hàm Nghi phong cho ông Đinh Văn Xán chức Bang Tá, lập văn phòng tiếp nhận chỉ dụ của vua gửi đi và tiếp nhận biếu tấu các nơi gửi đến. Với tinh thần trung quân, ái quốc, nhiều người Nguồn ở Ba Nương và các nơi đã chặt cây vàng lô (một loại cây có nhiều gai) rào xung quanh khu vực vua ở nhiều lớp, tạo nên một làng chiến đấu vững chắc, bảo vệ nhà vua cùng quan quân triều đình.
Ngày thứ tám ở xóm Lim, vua nhận được tin báo thực dân Pháp đang truy đuổi sắp đến xóm Trèng (thôn Kiên Trinh, xã Hóa Phúc). Thấy tình thế ở đây không an toàn, ngay đêm đó, vua cùng quan quân triều đình chia làm ba đoàn hành quân thần tốc vào Ma Rai, xã Hóa Sơn, trên ba con đường. Đoàn phò vua chủ yếu là nghĩa quân người Nguồn do ông Bang Tá Đinh Văn Xán điều hành thay phiên nhau cõng nhà vua đi bằng con đường gần nhất là từ xã Xuân Hóa qua xã Hóa Hợp theo đường Pặn Chuối, dốc Ải rồi qua eo Lập Cập vào Ma Rai, xã Hóa Sơn.
Qua eo Lập Cập, vua lệnh cho một bộ phận ở lại do ông Đinh Văn Nguyên chỉ huy canh gác tại đây và eo Chò. Bộ phận này là một đội quân tinh nhuệ chủ yếu là người Nguồn, được trang bị nỏ và tên độc. Đoàn quân thứ hai do đô đốc Tả quan Trần Soạn hành quân vào xóm Dò - Sy Thượng (xã Hồng Hóa) về ngã ba Khe Ve. Đoàn thứ ba là đoàn nghi binh do Tôn Thất Thuyết chỉ huy. Trong đoàn này có ông Nguyễn Văn Nhuận, người từng dạy học cho vua đóng giả vua Hàm Nghi.
Vị "vua" này được cải trang như thật với áo ngự bào, đội vương miện, ngồi trên võng vàng và được 4 binh lính khiêng bằng đòn rồng. Ngoài ra, đoàn quân hộ giá của "vua" có cả voi, ngựa và một đoàn dân phu người Nguồn đi theo khiêng vác rương, hòm đựng châu báu và đồ dùng của vua đi từ Ba Nương ra Quy Đạt xuống Tân Lý rồi dừng lại ở thác Dài (xã Trung Hóa). Hôm sau, quân Pháp từ Quy Đạt kéo vào Ba Nương để bắt vua nhưng không gặp. Chúng chia ra hai cánh quân để truy kích nhà vua. Cánh thứ nhất đi theo đường cái đến thác Dài. Thấy quân Pháp đến, "vua" liền ngồi lên võng cho 4 lính khiêng chạy. Đến cửa Rục Mòn thì "vua" xuống võng cho lính cõng chạy được một quãng đường rồi bị bắt.
Một cánh quân thứ hai do Đại úy Huygo chỉ huy bắt ông Lý Bài (lý trưởng làng Ba Nương) đi trước dẫn đường đến eo Lập Cập. Đến đây, ông Lý Bài không chịu đi trước vì sợ quân ông Tác Bình (một người Nguồn bắn nỏ rất giỏi) bắn tên độc. Do đó, Huygo lệnh cho trung đội quân Pháp giương súng xông lên. Nhưng tất cả tên lính bước qua "yếu hầu" Lập Cập đều bị tên độc bắn trúng. Trong cuộc chiến đấu đó, quân Pháp bị chết và bị thương hơn một nửa.
Eo Lập Cập được xem như là cửa tử của quân Pháp khi tiến vào xã Hóa Sơn. Ảnh: báo Quảng Bình.
Tức điên, Huygo bắt ông Lý Bài phải xông lên, nhưng ông một lòng trung quân, ái quốc. Huygo đã giương súng bắn chết ông Lý Bài ngay tại chỗ rồi liều mạng xông lên. Ngay lập tức, tên đại úy này đã bị trúng hai phát tên độc của quân ông Tác Bình. Bị thương nặng, Huygo đành ra lệnh cho quân rút khỏi eo Lập Cập chạy về Bãi Đức. Tập trung quân lại, Pháp mới biết ông "vua" bị bắt chính là thầy dạy học của vua Hàm Nghi, liền thả cho "vua" giả về quê với gia đình.
Những tháng năm ở Ma Rai, vua Hàm Nghi và quan quân triều đình được dân làng nhường nhà cửa, vườn nương cho vua làm việc, xây dựng căn cứ. Người dân Hóa Sơn đã chặt cây vàng lô rào làng chiến đấu, bảo vệ nhà vua. Vua cùng với triều đình xây dựng trận địa kháng chiến chống Pháp, phát triển phong trào Cần Vương trên đất Cơ Sa - Kim Linh và những vùng lân cận. Các căn cứ địa được vua xây dựng vững chắc tạo nên thế trận chiến đấu liên hoàn. Nghĩa quân các căn cứ địa này đã chiến đấu anh dũng, tiêu diệt nhiều quân Pháp, bảo vệ vua Hàm Nghi cho đến khi ông bị bắt sau hơn ba năm ở trên đất Minh Hóa.
Trước khi bị bắt, vua Hàm Nghi đã cho đem vàng bạc châu báu đi giấu vào một thân cây cổ thụ tại vực Trẩy, thuộc khe Dương Cau. Nhiều người cao tuổi ở xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, kể lại trong một trận lũ lớn tháng 8/1956, có cô gái tên Qúy đi xúc cá đã phát hiện ra nhiều tấm kim loại màu vàng trên bãi đất bồi bên vực Trẩy, khe Dương Cau, xã Hóa Sơn.
Sau đó, cô gái này về báo lại với gia đình và nhiều người trong thôn đã đến xem, cho rằng toàn bộ số kim loại đó là vàng của vua Hàm Nghi. Thông tin này đã nhanh chóng đến được với chính quyền các cấp và cơ quan chức năng. Lúc đó, xã Hóa Sơn đã chỉ đạo cho lực lượng dân quân, công an bảo vệ rồi thu gom vàng. Tổng cộng số vàng thu được là 240 kg, bỏ đầy 5 cái nong phơi lúa. Đó là những tấm vàng có hình chữ "Đại". Vàng được gom về tập kết tại sân nhà ông Phát gần đó rồi đem giao nộp cho Nhà nước.
Tuy nhiên, trước khi thu gom, có nhiều người dân đã lấy đi một số vàng đem về làm đồ dùng trong nhà như những thứ sắt, thép khác chứ họ không quan tâm đến giá trị của vàng. Nhiều người còn nói, cô gái tên Qúy đã lấy đi một lượng vàng khá lớn rồi đi vào miền Nam sinh sống đến nay vẫn chưa về.
Vực Trẩy, thuộc khe Dương Cau ngày xưa có cây Pằn Nàng là nơi vua Hàm Nghi cất giấu vàng. Ảnh: báo Quảng Bình.
Bà Đinh Thị Bình, 78 tuổi ở thôn Đặng Hóa kể lại: "Hồi đó, bên cạnh vực Trẩy có một cây Pằn Nàng rất lớn, nhưng trong thân lại bị rỗng. Sau trận lụt lớn, cây này bị đổ và nước cuốn cây xuống vực sâu. Khi lũ rút đi để lại rất nhiều vàng. Chính tôi đã nhặt được 5 chữ vàng rồi đem giao nộp và được cấp trên thưởng cho một bộ quần áo mới. Còn xã được thưởng ba con lợn với rất nhiều lúa gạo để ăn mừng". Nhân sự kiện đó, nhiều người cho rằng, có thể vua Hàm Nghi đã cho người giấu vàng trong hốc cây Pằn Nàng đại thụ này.
Nhiều người đặt câu hỏi, liệu có còn kho báu nào của vua Hàm Nghi nữa không? Điều này cũng rất khó trả lời chính xác. Thế nhưng, gần 30 năm qua, ông Nguyễn Hồng Công, một người từ TP HCM đã tiêu tốn biết bao công sức, tiền của để tìm kho báu với một tấm bản đồ không biết thực hư. Và trong suốt thời gian dài đó, ông đã nằm gai nếm mật trên núi Mã Cú, xã Hóa Sơn để tìm vàng. Nhưng đến nay, sức cùng lực kiệt ông vẫn không tìm thấy kho báu nào. Dù trước đó, ông từng hai lần tuyên bố tìm thấy kho vàng của vua Hàm Nghi.
Ông Đinh Tiến Hùng, một người cao tuổi ở thị trấn Quy Đạt, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vua Hàm Nghi nhận định: "Chẳng còn kho báu nào của vua Hàm Nghi ở xã Hóa Sơn nữa cả. Tôi cho rằng, bản đồ mà ông Nguyễn Hồng Công đang cầm đúng là bản đồ thật, được vẽ ngay tại thời điểm cất giấu vàng. Nhưng bản đồ này chỉ là chiêu bài đánh lừa hậu thế và giặc Pháp của nhà vua".
Trước đó, các nhà khoa học cũng đã vào cuộc nghiên cứu và kết luận ở khu vực ông Công đào vàng trên núi Mã Cú không có dấu hiệu gì cho thấy các tầng đất ở đó bị xáo trộn như kiểu đã bị đào bới rồi lấp lại để chôn cất kho báu. Ở đó chỉ toàn là mạch đất nguyên sinh. Một số ý kiến khác lý giải thêm trong lúc đang bị giặc Pháp truy đuổi ráo riết như thế, vua và quan quân không đủ thời gian, điều kiện để đào cả ngọn núi chôn vàng. Trong cuộc hành trình của nhà vua từ Huế ra toàn đi bí mật ở địa hình rừng núi hiểm trở nên không cho phép mang vác cả một khối lượng của cải nặng đi theo nên chuyện mang cả kho báu là điều không thể.
Và trong thời khắc "dầu sôi lửa bỏng" như thế, có lẽ vua đã nghĩ nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất và quyết định chọn gốc cây Pằn Nàng để giấu hết toàn bộ số vàng.
Theo VNE
Phát hiện ngôi mộ chôn 103 nghĩa sĩ Cần Vương Những nấm mộ tập thể này quây quần bên một gốc cây đa rất to, cũng phải 4-5 người ôm mới xuể... 14 năm trước, tháng 2-1999, di tích Tiên Động, căn cứ chống Pháp có tầm chỉ đạo chiến lược cho cả phong trào Cần Vương Bắc Kỳ do thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích lãnh đạo đã được xếp hạng di tích...