Bệnh… đái tháo nhạt
Nếu ‘đái tháo đường’ là bệnh khá phổ biến và được nhiều người biết đến thì ‘đái tháo nhạt’ là bệnh hiếm gặp hơn và cũng ít người biết đến.
Minh họa/INT
Tỉ lệ mắc bệnh đái tháo nhạt khoảng 1/25.000. Đái tháo nhạt là một bệnh lý thuộc nhóm bệnh nội tiết và thường gặp ở đối tượng người lớn.
Đái tháo nhạt (Diabetes Insipidus, viết tắt: DI) là tình trạng rối loạn nội tiết trong cơ thể người bệnh. Sự rối loạn này liên quan đến hormone Arginin vasopressin chống bài tiết nước tiểu (Antidiuretic Hormone, viết tắt là ADH).
Chất này có vai trò điều chỉnh lượng nước tiểu thải qua thận. Do sự rối loạn mà vai trò này bị mất và nước tiểu không còn được kiểm soát sự đào thải nên tha hồ qua thận đổ ra ngoài tạo bệnh cảnh đái tháo nhạt.
Hormone chống bài niệu được sản xuất bởi một thành phần trong não bộ gọi là vùng dưới đồi. Sau đó, hormone này được chuyển đến dự trữ tại tuyến yên (là một tuyến nhỏ nằm gần vùng dưới đồi). Từ tuyến yên, hormone chống bài niệu được giải phóng vào máu khi các bộ phận chức năng liên quan có nhu cầu.
Các trường hợp bệnh lý gây mất nước, mất máu và tụt huyết áp, cơ thể sẽ ngay lập tức tăng cường sản xuất và giải phóng hormone chống bài niệu nhiều hơn bình thường. Điều này sẽ giúp thận hạn chế tối đa sự bài xuất nước tiểu, các trường hợp nặng sẽ gây vô niệu. Trạng thái này nhằm mục đích giữ nước lại cho cơ thể để duy trì huyết áp và sự tuần hoàn máu.
Ảnh minh họa: ITN
Video đang HOT
Ở một người bình thường, nước tiểu trước khi bài tiết đã được thận làm cho cô đặc, nên nhiều khi thấy nước tiểu sẫm màu, lượng ít. Trái lại, ở người bệnh đái tháo nhạt thì nước tiểu đúng là… nhạt thật, vì nó không được làm cho cô đặc nên màu sắc nước tiểu thường trong veo, lượng nước tiểu thải ra mỗi ngày rất nhiều và gần như không kiểm soát được.
Bệnh đái tháo nhạt chia thành 2 nhóm cơ bản. Nhóm bắt nguồn từ sự suy giảm bài tiết hormone chống bài niệu từ thùy sau tuyến yên gọi là đái tháo nhạt trung ương (Central Diabetes Insipidus, viết tắt là CDI).
Nhóm khác, mặc dù ADH được cung cấp đầy đủ nhưng thận lại “trơ” đáp ứng và làm mất kiểm soát, gọi là đái tháo nhạt do thận (Nephrogenic Diabetes Insipidus, viết tắt là NDI). Trong đó, nhóm bệnh đái tháo nhạt trung ương thường gặp hơn đái tháo nhạt do thận.
Bệnh khởi phát khi bị tổn thương vùng dưới đồi hoặc tuyến yên. Trên thực tế, có những bệnh nhân mắc bệnh đái tháo nhạt sau một chấn thương vùng sọ hoặc phẫu thuật vùng sọ.
Ngoài 2 nhóm trên, bệnh đái tháo nhạt còn xảy ra ở những người phụ nữ mang thai và bệnh cũng sẽ biến mất ngay sau khi sinh. Nên được gọi là bệnh đái tháo nhạt thai kỳ.
Tỉ lệ mắc bệnh khoảng 4/100.000. Những người mẹ mang đa thai thì nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn do có nhiều nhau thai cùng tham gia sản xuất vasopressinase hơn người mẹ mang đơn thai.
Gây mất nước
Người mắc bệnh đái tháo nhạt có số lần đi tiểu vượt trội so với một người bình thường và mỗi lần đi tiểu, lượng nước tiểu cũng nhiều hơn một cách bất thường. Do đi tiểu quá nhiều lần và lượng nước tiểu cũng nhiều nên nước tiểu gần như không có sự cô đặc, rất nhạt màu.
Người bệnh luôn có cảm giác khát nước và uống nước rất nhiều, nhất là nước lạnh và nước đá. Càng uống nhiều nước, nước tiểu càng tự do tuôn ra ngoài mà chưa có sự “chế biến” của nhà máy thanh lọc nước tiểu là thận.
Nếu như một người bình thường lượng nước tiểu thải ra trong ngày khoảng 1,5 đến 3 lít thì người mắc bệnh đái tháo nhạt có thể thải ra đến 20 lít nước tiểu trong một ngày. Do đó, nếu bệnh tiến triển lâu ngày và không được điều trị hiệu quả, người bệnh ngày càng teo tóp và suy kiệt.
Bệnh đái tháo nhạt là bệnh gây mất nước cho cơ thể. Nói khác hơn, tế bào trong các bộ phận cơ thể luôn đặt trong tình trạng thiếu nước và mất nước. Vì vậy, đây là một bệnh nghiêm trọng cần được điều trị tích cực và hiệu quả để giữ cho cuộc sống của người bệnh luôn được cân bằng.
Nếu ngừng uống nước hoặc không được điều trị thích hợp, người bệnh thường có các biểu hiện sau đây: Cảm giác khô niêm mạc ở miệng, môi và mắt, cảm giác mệt mỏi và chóng mặt, buồn nôn. Các trường hợp nặng đột nhiên bị ngất xỉu. Nếu không được điều trị cấp cứu sẽ rơi vào hôn mê và tử vong.
Việc điều trị người bệnh đái tháo nhạt tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nếu bệnh nhân là phụ nữ mang thai bị đái tháo nhạt thai kỳ thì diễn tiến bệnh thường nhẹ nhàng, không có điều trị gì đặc biệt.
Minh họa/INT
Người bệnh được khuyên khám thai định kỳ và làm các xét nghiệm nhằm tầm soát rối loạn nước và điện giải cơ thể để có sự điều chỉnh phù hợp. Trường hợp bệnh nặng, gây mất nước nghiêm trọng đe dọa sự phát triển thai nhi hoặc tính mạng người mẹ, bác sĩ chuyên khoa sẽ cân nhắc sử dụng các loại hormone tổng hợp để kiểm soát sự thải nước tiểu.
Các trường hợp đái tháo nhạt trung ương do bệnh lý vùng dưới đồi tuyến yên như u tuyến yên thì cần phẫu thuật sớm để loại bỏ khối u. Sau đó dùng liệu pháp hormone thay thế dưới dạng xịt mũi, viên uống hoặc tiêm.
Bệnh nhân đái tháo nhạt do thận, nếu dùng thuốc gây ảnh hưởng thận thì cần ngưng sử dụng. Người bệnh cũng cần điều chỉnh chế độ ăn phù hợp như ăn nhạt, ít đạm và dùng thuốc theo sự chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Bệnh hiếm gặp lây lan kỷ lục, Nhật Bản vẫn chưa tìm ra nguyên nhân
Các chuyên gia cảnh báo một loại bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn tuy hiếm gặp nhưng nguy hiểm đang lây lan với tốc độ kỷ lục ở Nhật Bản, và giới chức vẫn chưa thể xác định chính xác nguyên nhân.
Theo tường thuật của báo The Guardian ngày 15.3, các cơ quan y tế Nhật Bản đang quan ngại về sự gia tăng số ca mắc hội chứng sốc nhiễm độc liên cầu khuẩn (STSS), căn bệnh có tỷ lệ tử vong lên tới 30%, trên toàn quốc.
Số liệu tạm thời do Viện Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIID) của Nhật Bản công bố cho thấy 941 ca STSS được ghi nhận vào năm ngoái. Trong hai tháng đầu năm 2024, 378 trường hợp đã được báo cáo, hiện diện ở 45/47 tỉnh của Nhật Bản. Tổng số ca mắc bệnh trong năm nay dự kiến sẽ vượt qua con số kỷ lục của năm ngoái.
"Vẫn còn nhiều yếu tố chưa biết liên quan đến cơ chế đằng sau các dạng liên cầu khuẩn nghiêm trọng và bất thường, và chúng tôi đến nay vẫn chưa thể giải thích được", NIID cho biết trong một tuyên bố.
Vi khuẩn Streptococcus pyogenes là nguyên nhân trong hầu hết các trường hợp sốc nhiễm độc liên cầu khuẩn, hay STSS. ẢNH CHỤP MÀN HÌNH THE GUARDIAN
Theo NIID, trong khi những người lớn tuổi được coi là có nguy cơ cao hơn thì liên cầu khuẩn nhóm A (Streptococcus pyogenes) đang dẫn đến nhiều ca tử vong hơn ở những bệnh nhân dưới 50 tuổi. Báo Asahi Shimbun đưa tin, trong số 65 người dưới 50 tuổi được chẩn đoán mắc STSS từ tháng 7 đến tháng 12.2023, 21 người đã tử vong.
Hầu hết các trường hợp STSS là do Streptococcus pyogenes gây ra. Vi khuẩn này có thể gây đau họng, chủ yếu ở trẻ em, và nhiều người nhiễm vi khuẩn này mà không hay biết và không phát bệnh.
Song trong một số trường hợp, loại vi khuẩn rất dễ lây lan này có thể gây bệnh nghiêm trọng, biến chứng sức khỏe và dẫn đến tử vong, đặc biệt ở người trên 30 tuổi. Khoảng 30% ca mắc STSS cuối cùng tử vong.
Người lớn tuổi có thể gặp các triệu chứng giống cảm lạnh nhưng trong một số ít trường hợp, các triệu chứng có thể trở nên trầm trọng hơn bao gồm viêm họng liên cầu khuẩn, viêm amidan, viêm phổi và viêm màng não. Trong trường hợp nghiêm trọng nhất, STSS có thể dẫn đến suy nội tạng và hoại tử.
Một số chuyên gia tin rằng số ca STSS tăng nhanh ở Nhật Bản vào năm ngoái có liên quan đến việc dỡ bỏ các hạn chế được áp đặt trong đại dịch Covid-19. Vào tháng 5.2023, chính phủ Nhật Bản đã hạ cấp phân loại Covid-19 từ nhóm 2 (bao gồm bệnh lao và SARS) xuống nhóm 5 (tức ngang hàng với bệnh cúm theo mùa).
Ông Ken Kikuchi, giáo sư về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Y khoa Phụ nữ Tokyo, cho biết ông "rất lo ngại" về sự gia tăng đáng kể số lượng bệnh nhân STSS trong năm nay. Chuyên gia này tin rằng việc tái phân loại Covid-19 là nguyên nhân quan trọng nhất đằng sau sự gia tăng số ca nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A. Theo vị giáo sư, điều này đã khiến nhiều người từ bỏ các biện pháp cơ bản để ngăn ngừa lây nhiễm, chẳng hạn như khử trùng tay thường xuyên.
"Theo tôi, hơn 50% người Nhật đã bị nhiễm SARS-CoV-2 [vi rút gây ra Covid-19]... Tình trạng miễn dịch của mọi người sau khi hết Covid-19 có thể làm thay đổi sức đề kháng của họ đối với một số vi sinh vật", The Guardian dẫn lời ông Kikuchi.
Liên cầu khuẩn, giống như Covid-19, lây lan qua các giọt nhỏ và tiếp xúc vật lý. Vi khuẩn cũng có thể lây nhiễm cho bệnh nhân thông qua các vết thương ở tay, chân.
Nhiễm trùng liên cầu khuẩn nhóm A được điều trị bằng kháng sinh, nhưng những bệnh nhân nặng hơn có thể cần kết hợp kháng sinh và các loại thuốc khác, cùng với sự chăm sóc y tế chuyên sâu.
Bộ Y tế Nhật Bản khuyến nghị người dân nên thực hiện các biện pháp vệ sinh cơ bản giống như thời kỳ Covid-19 để đề phòng lây nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A.
Biến chứng nguy hiểm của bệnh cường giáp Cường giáp là bệnh nội tiết thường gặp, chiếm 10% dân cư đi kèm với nhiều triệu chứng và biến chứng nguy hiểm nếu không được phát hiện sớm, điều trị kịp thời. Cường giáp là tình trạng tuyến giáp tăng hoạt động, sản xuất nhiều hormone giáp và tăng nồng độ hormone giáp trong máu. Nếu cường giáp không được phát hiện,...