Bên trong ngành công nghiệp IVF trị giá hàng tỷ USD của châu Á
Suốt hành trình 11 năm theo đuổi thiên chức làm mẹ, cô Jenjira đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc – từ hy vọng đến tuyệt vọng.
Khi niềm khao khát làm mẹ liên tục bị khước từ, Jenjira không bỏ cuộc. Cô đã tìm đến các phòng khám hỗ trợ sinh sản tốt nhất ở Bangkok.
Theo báo Bưu điện Hoa Nam buổi sáng, giờ đây, người phụ nữ 45 tuổi này chỉ còn 2 phôi đông lạnh cuối cùng trong khi ngân sách đang dần cạn kiệt. Sau 9 lần chuyển phôi thất bại, Jenjira lo sợ không còn đủ thời gian để ước mơ có một đứa con của hai vợ chồng cô trở thành hiện thực.
“Tôi đã tìm đến cả khoa học và tâm linh nhưng có lẽ số mệnh định đoạt tôi không có con. Từ sâu thẳm tâm can, tôi vẫn muốn có con. Nhưng sau mỗi lần thất bại, chúng tôi lại rất buồn, chán nản, thế giới như sụp đổ và tôi cảm thấy mình là kẻ thất bại”, cô Jenjira chia sẻ.
Cô cho biết áp lực từ gia đình chồng và người chồng luôn khao khát có người thừa kế đã khiến cô suy sụp về mặt tinh thần. Suốt những năm qua, Jenjira đã phải trải qua nhiều tháng chữa trị như tiêm hormone, dùng thuốc, tăng cân và quá trình vực lại tinh thần đầy vất cả sau những chu kỳ điều trị thất bại.
Cho đến nay, cô đã chi khoảng 5 triệu baht (khoảng 3,4 tỷ đồng) điều trị có con. Đây là tài sản lớn đối với cô nhưng chỉ là một giọt nước trong đại dương thị trường “tìm con” trị giá hàng tỷ USD ở châu Á.
Nhân viên y tế thực hiện điều trị sinh sản tại phòng khám IVF ở Bangkok, Thái Lan. Ảnh: AFP
Số lượng trẻ sơ sinh tại Châu Á – Thái Bình Dương đang nhanh chóng tụt xuống mức rất thấp khi tỷ lệ sinh giảm mạnh, khiến nhu cầu về công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) tăng vọt. Theo dự báo của Allied Market Research, thị trường dịch vụ sinh sản của khu vực này sẽ có giá trị ước tính khoảng 13,5 tỷ USD vào năm 2028 – gấp đôi giá trị vào năm 2020. Tiềm năng tăng trưởng bùng nổ của ngành này đã kéo theo vốn đầu tư mạo hiểm và danh sách thị trường chứng khoán tăng vọt.
Trong khi nhiều cặp vợ chồng đang trì hoãn việc sinh con tự nhiên, thì tỷ lệ vô sinh cũng đang gia tăng ở cả nam và nữ trên toàn cầu. Hàng triệu người đã lựa chọn không sinh con, trong khi các chuyên gia cảnh báo về sự suy giảm nhân khẩu học dường như không thể đảo ngược ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan.
Video đang HOT
Singapore, Malaysia, Australia và New Zealand cũng gia nhập danh sách ngày càng mở rộng các quốc gia phải đối mặt với tỷ lệ sinh giảm.
Nhưng trong thế giới AVR, nơi sống hay nơi lựa chọn làm dịch vụ hỗ trợ sinh sản, sẽ quyết định chi phí để có con.
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), thủ tục ART phổ biến nhất, có chi phí trung bình là 10.200 USD mỗi chu kỳ tại các bệnh viện tư nhân ở Singapore, nơi có mức giá cao nhất trong khu vực. Trong khi đó, chi phí IVF ở Ấn Độ có mức giá rẻ nhất khoảng 2.700 USD cho mỗi đợt điều trị. Phụ nữ thường yêu cầu tối thiểu ba chu kỳ IVF, kèm theo nhiều loại thuốc, để hỗ trợ sản xuất trứng.
Thủ thuật đông lạnh trứng. Ảnh: Getty Images
Tiến sĩ Colin Lee, Giám đốc điều hành của Tập đoàn IVF Alpha có trụ sở tại Malaysia, cho biết: “Chi phí thực hiện IVF tối đa hóa tỷ lệ mang thai không hề rẻ. Toàn bộ quá trình IVF khá phức tạp”.
Tại châu Á, các phòng khám IVF mọc lên khắp khu vực khi ngày càng có nhiều cặp vợ chồng sinh con muộn hơn, phản ánh những thay đổi xã hội rộng lớn xung quanh sự lựa chọn, kinh tế và thu hẹp chênh lệch giới tính.
Các chuyên gia cho biết nhu cầu về các phương pháp điều trị sinh sản có giá cả phải chăng, có chỉ dẫn rõ ràng đang ngày càng cấp thiết. Nhiều quốc gia đang kêu gọi các chính phủ tăng cường trợ cấp dành cho những phụ nữ muốn sinh con.
Ông Luk Rombauts, Giám đốc y tế của Monash IVF và giáo sư tại Đại học Monash ở Melbourne, cho biết: “Tại Australia, cứ 18 trẻ sơ sinh thì có một trẻ được sinh ra bằng phương pháp IVF, báo cáo do Đại học New South Wales công bố năm ngoái tiết lộ. Nhờ sự tài trợ của chính phủ, hầu hết các bệnh nhân mong muốn có con đều có thể tiếp cận IVF. Ngoại trừ những vùng rất xa xôi của Australia, khả năng tiếp cận IVF nói chung đều thuận lợi”.
Tương tự như vậy, theo dữ liệu mới nhất của Bộ Y tế Singapore, các chương trình hỗ trợ chi phí điều trị sinh sản của chính phủ giúp sẽ tài trợ một phần cho hàng nghìn đợt điều trị ARV mỗi năm – 10.800 ca vào năm 2021.
Kỹ thuật viên làm việc tại một phòng khám sinh sản ở Kuala Lumpur, Malaysia. Ảnh: AFP
Trong khi đó, Thái Lan vẫn là quốc gia dẫn đầu thị trường về du lịch y tế, với một loạt các phương pháp điều trị sinh sản nhắm vào thị trường Trung Quốc rộng lớn. Trong đó, Baidu và WeChat cung cấp đầy đủ các hướng dẫn cần thiết cùng với chi phí và xếp hạng bệnh viện.
Các diễn đàn bằng tiếng Trung mô tả Thái Lan là “thánh địa” cho các phương pháp điều trị vô sinh, với cơ sở vật chất tiên tiến nhất và chuyên môn phong phú. Các công ty có trụ sở tại Trung Quốc như Green Bridge chuyên kết nối khách hàng Trung Quốc với các dịch vụ sinh sản của Thái Lan, tự hào với hơn 5.000 ca sinh nở thành công.
Các dịch vụ bổ sung dành riêng cho thị trường Trung Quốc được kết hợp thành các gói, chẳng hạn ưu đãi trị giá 22.000 USD từ Green Bridge – bao gồm các kỳ nghỉ trọn gói tại các khách sạn 5 sao, trợ lý tận tâm và thậm chí cả một bảo mẫu chăm sóc sau sinh 25 ngày phục vụ người Trung Quốc.
Hoạt động kinh doanh này cũng đang bùng nổ trên khắp châu Á với nhiều giao dịch hơn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản. Hồi tháng 4, Tập đoàn sinh sản Jinxin niêm yết ở Hong Kong (Trung Quốc_ đã mua 30% cổ phần của Morula, nhà cung cấp IVF lớn nhất Indonesia, tiếp thêm động lực cho nền kinh tế sinh sản đang phát triển của khu vực.
Bà mẹ trẻ cho con ăn trong công viên. Ảnh: Shutterstock
Công nghệ IVF đã xuất hiện từ hơn 4 thập kỷ trước, khi “em bé ống nghiệm” đầu tiên trên thế giới – Louise Brown – được sinh thành công tại Bệnh viện Đa khoa Oldham ở Anh vào lúc nửa đêm ngày 25/7/1978. Kể từ đó, ước tính có khoảng 12 triệu trẻ sơ sinh đã được sinh ra bằng phương pháp điều trị sinh sản này. Em bé IVF đầu tiên của châu Á là Samuel Lee, người Singapore, sinh năm 1983, nhờ công trình tiên phong của Giáo sư Shan Ratnam.
Bước đột phá này đã mang lại hy vọng cho các cặp vợ chồng hiếm muộn trên khắp châu Á, đồng thời tạo ra ngành công nghiệp trị giá hàng tỷ USD, mang lại điều kỳ diệu về cuộc sống cho những người sắp làm cha mẹ.
Điều trị sinh sản liên quan đến việc sử dụng thuốc tiêm hormone để kích thích buồng trứng sản xuất nhiều trứng. Sau đó lấy trứng thụ tinh với tinh trùng bên ngoài cơ thể. Sau khi thụ tinh, phôi thu được sẽ được theo dõi và nuôi dưỡng trong vài ngày trước khi được cấy vào tử cung, giúp tăng cơ hội mang thai thành công.
Theo chuyên gia, độ tuổi cũng là yếu tố quyết định tỷ lệ thành công của IVF. Đối với phụ nữ dưới 35 tuổi, có khoảng 30 – 35% ca IVF thành công, tỷ lệ này giảm xuống mức thấp nhất là 7-10% đối với phụ nữ trên 40 tuổi.
Ngoài vai trò của tuổi tác, phụ nữ cũng cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng trong quá trình thực hiện các phương pháp hỗ trợ sinh sản để có kết quả tốt.
Tỷ lệ sinh giảm ảnh hưởng đến nhiều quốc gia
Theo phóng viên TTXVN tại Paris, tổng hợp về tình hình nhân khẩu học thế giới, nhật báo Les Echos nhận thấy rằng sự già đi của dân số ở các nước giàu đang gia tăng, đặc biệt là ở châu Âu và châu Á.
Các nước như Hàn Quốc và Nhật Bản là những quốc gia đầu tiên báo động về tình trạng này. Những nước khác, chẳng hạn như Nga, cũng lo ngại. Tuy nhiên, Mỹ là một ngoại lệ, với sự phục hồi trong cân bằng tự nhiên.
Người dân di chuyển trên đường phố thủ đô Tokyo, Nhật Bản. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN
Các nước phát triển đang trải qua một "mùa Đông" nhân khẩu học. Cả xu hướng lẫn cách thể hiện đều không mới, nhưng tốc độ già hóa đã tăng kể từ khi bắt đầu có dịch COVID-19. Tỷ lệ sinh vẫn chưa trở lại mức trước đại dịch. Từ Bắc đến Nam, phụ nữ ngày càng sinh ít con hơn trước.
Châu Âu ngày càng sống đúng với tên gọi của mình, Lục địa già, và các nước phải đối mặt với tình trạng ngân sách phúc lợi ngày càng tăng để giải quyết vấn đề này. Italy là quốc gia châu Âu có tốc độ già hóa nhanh nhất. Năm 2022, số ca sinh ở Italy đã giảm xuống dưới mốc tượng trưng 400.000, đứng ở mức 393.000, con số thấp nhất kể từ năm 1861, ngày thống nhất đất nước. Theo số liệu tạm thời của năm 2023, số trẻ em sinh ra sẽ dưới mức 380.000. Với tỷ lệ sinh thấp nhất châu Âu - 1,24 con/phụ nữ - xu hướng này sẽ vô cùng khó ngăn chặn. Theo Istat, 1/4 phụ nữ Italy sinh vào những năm 1990 không có kế hoạch sinh con. Số trẻ sơ sinh hàng năm đã giảm 30% trong một thập kỷ.
Tại Đức, tỷ lệ sinh đã tăng từ 1,38 trẻ trên một phụ nữ vào năm 2000 lên 1,58 vào năm 2021, nhờ chính sách gia đình tích cực hơn và việc xây dựng thêm nhiều nhà trẻ ở các thành phố lớn. Nhưng đến năm 2022, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 1,46 trẻ trên một phụ nữ. Đây là mức thấp nhất kể từ năm 2013, và thậm chí còn thấp hơn nếu chỉ giới hạn ở phụ nữ quốc tịch Đức (1,36). Những số liệu đầu tiên cho năm 2023 cũng xác nhận xu hướng giảm với số ca sinh nở ít hơn 7,4% trong khoảng 9 tháng đầu năm. Đức hiện có 84,3 triệu dân vào năm 2022, nhiều hơn con số gần 70 triệu người vào đầu những năm 1950. Tuy nhiên, nếu thời gian tới không có lao động nước ngoài đến, dân số Đức sẽ giảm vào năm 1972.
Ở Hy Lạp, số lượng trẻ em chào đời năm 2022 đang ở mức thấp nhất trong 90 năm qua và xu hướng giảm này có vẻ như vẫn tiếp tục. Tại Nga, tuy tỷ lệ tử vong giảm nhờ các chính sách y tế và cuộc chiến chống nghiện rượu và thuốc lá đã mang lại kết quả tích cực. Tuổi thọ của người Nga cũng đang trên đà đạt kỷ lục: gần 74 tuổi. Nhưng bất chấp các chính sách khuyến khích sinh nở, mức sinh vẫn giảm và Nga đang phải chịu ảnh hưởng của đợt suy thoái nhân khẩu học những năm 1990 với kết quả là tỷ lệ sinh mới giảm 4%/năm. Với 144 triệu người, đất nước này hiện đang có số dân ít hơn so với năm 2000.
Nhưng châu Âu không phải là nơi duy nhất đáng lo ngại. Nhiều nước mới nổi cũng phải đối mặt với tỉ lệ sinh giảm. Châu Mỹ Latinh, Trung Đông và châu Á đều bị ảnh hưởng. Tại Colombia, tỷ lệ sinh giảm xuống còn 1,85 trẻ trên một phụ nữ vào năm 2022. Tại Thái Lan, số sinh hiện thấp hơn số tử và đã giảm 30% trong 10 năm. Trung bình một phụ nữ Trung Quốc chỉ có 1,1 con vào năm 2022. Ở Iran, số con trên mỗi phụ nữ giảm xuống còn 1,7. Ở Triều Tiên, con số này sẽ giảm xuống dưới ngưỡng đổi mới thế hệ, tức 2,1 con trên một phụ nữ.
Đặc biệt, với tỷ lệ sinh rơi tự do và hiện đạt gần 0,7 trẻ em trên một phụ nữ vào cuối năm 2023, Hàn Quốc đang chuẩn bị chứng kiến dân số của mình mất đi ít nhất 15 triệu dân trong vòng 50 năm tới. Theo dự báo mới nhất của Viện Thống kê Hàn Quốc, quốc gia này sẽ chỉ có 36 triệu người vào năm 2072, so với 51,6 triệu dân hiện nay. Do số lượng sinh thấp nên gần 48% dân số cả nước khi đó sẽ từ 65 tuổi trở lên. Năm ngoái, tỷ lệ này chỉ là 17,4%.
Hiện chỉ có Mỹ là trường hợp ngoại lệ. Tại nước này, cân bằng tự nhiên đã bắt đầu phục hồi kể từ năm 2022 và xu hướng này tăng tốc vào năm 2023, sau khi COVID-19 kết thúc. Theo ước tính ban đầu, sự gia tăng dân số do khoảng cách giữa sinh và tử thực tế lên tới 531.400 người vào năm 2023. Tuy nhiên, con số này vẫn bằng một nửa so với năm 2018 và 2019. Năm 2023, tại Mỹ có gần 3,66 triệu trẻ sơ sinh được sinh ra, giảm nhẹ so với năm 2022 (3,68 triệu), nhưng tăng đáng kể so với năm 2021 (3,58 triệu).
Bất chấp sự bùng nổ kinh tế và sự lạc quan mới trong nước, tỷ lệ sinh ở Mỹ vẫn chưa lấy lại được sức sống trước khủng hoảng, thời điểm có 3,8 triệu trẻ em được sinh ra mỗi năm.
Trên thực tế, số ca sinh đã giảm kể từ những năm 2010 ở Mỹ do quá trình chuyển đổi nhân khẩu học đang diễn ra. Đây cũng là một trong những mối quan tâm của Elon Musk, ông chủ của hãng xe Tesla và chủ sở hữu của nền tảng mạng xã hội X, người có 10 người con, và là người công khai phàn nàn về tỷ lệ sinh giảm. Dòng người nhập cư cho đến nay đã tạo điều kiện cho việc mở rộng dân số liên tục của Mỹ, nơi có 335 triệu dân.
Nhật Bản bỏ không 9 triệu ngôi nhà, đủ để ở cho cả thành phố New York Số lượng nhà bỏ không ở Nhật Bản đã tăng lên mức cao kỷ lục 9 triệu ngôi - quá đủ cho từng người dân ở thành phố New York, Mỹ, khi quốc gia Đông Á này phải vật lộn với dân số ngày càng giảm. Cỏ dại và dây leo mọc xung quanh một ngôi nhà bỏ hoang ở Okuma, Nhật Bản...