Bất động sản ‘kẹt’ vốn: Lo GDP giảm, kéo tụt nhiều ngành khác
Các chuyên gia cho rằng nên có biện pháp quản lý chặt chẽ thị trường thay vì ngày càng siết chặt tín dụng bất động sản.
Nguồn tiền mua nhà hiện nay vẫn dựa nhiều vào vay ngân hàng.
Bất lợi cho người mua nhà
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nhằm thay thế cho Thông tư 36 trước đó.
Điểm mới của dự thảo lần này là hệ số rủi ro mà các ngân hàng phải áp dụng khi trích lập dự phòng cho các khoản vay cá nhân dư nợ từ 3 tỷ đồng sẽ là 150% thay vì mức 50% như trước. Ngoài ra, áp hệ số rủi ro 50% với các khoản vay được bảo đảm bằng nhà ở, quyền sử dụng đất, công trình xây dựng gắn với quyền sử dụng đất và đáp ứng một số điều kiện khác.
Giới chuyên gia nhận định dự thảo này gây bất lợi không chỉ cho doanh nghiệp bất động sản mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Chuyên gia tài chính ngân hàng – TS Nguyễn Trí Hiếu nhìn nhận, việc tăng hệ số rủi ro cho những khoản vay cá nhân tất yếu tác động đến thị trường bất động sản. Chưa kể, tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn đã được kéo giảm từ mức 45% xuống còn 40% trong đầu năm 2019.
“Tất cả những chính sách đó đã là cái phanh hãm lại hoạt động cho vay bất động sản và tác động đến thị trường nói chung. Có khả năng giá nhà cũng vì thế tăng lên bởi khi siết tín dụng thì lãi suất cho vay tăng. Chính sách có hiệu quả trong quản lý rủi ro, ngăn chặn sớm bong bóng bất động sản nhưng có phần bất lợi cho người tiêu dùng”, TS Nguyễn Trí Hiếu nhận xét.
Chuyên gia Võ Trí Thành, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương ( CIEM) nêu quan điểm chỉ nên hạn chế cho vay đất nền bởi giá mua đắt, tỷ trọng cho thuê không được cao và có khả năng biến động giá ở biên độ lớn; còn với các công trình nhà ở thì chủ sở hữu có thể dễ dàng tìm kiếm khách thuê, có lợi nhuận ổn định. Các dự án này cũng kéo theo sự tăng trưởng của nhiều ngành khác.
“Nhìn chung, nên kiểm soát thị trường bất động sản một cách chặt chẽ, đi liền với giám sát nhưng cũng phải tạo sự ổn định cho thị trường phát triển, người dân mua nhà, đặc biệt phân khúc nhà ở thương mại giá thấp và nhà ở xã hội”, TS Võ Trí Thành góp ý.
Giới chuyên gia còn bày tỏ lo ngại dù chính sách đưa ra nhằm siết tín dụng với bất động sản cao cấp nhưng sẽ tác động tới toàn thị trường, khiến mặt bằng giá nhà nói chung nhích lên so với hiện tại. Khi giá nhà tăng lên bởi hậu quả của siết tín dụng sẽ “tước” cơ hội tiếp cận nhà ở của một bộ phận người dân tại các đô thị lớn. Như vậy, vô tình chính sách kiểm soát thị trường bất động sản lại đi ngược lại với chính sách tạo điều kiện về nhà ở cho người dân.
Lo GDP giảm, nhiều ngành bị ảnh hưởng
Ông Nguyễn Mạnh Hà, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản cho rằng, tín dụng cho bất động sản đã được kiểm soát chặt chẽ từ năm 2016, khiến cho quy mô tín dụng cho ngành này giảm dần. Cụ thể, tỷ lệ dư nợ trong bất động sản hiện khoảng hơn 500.000 tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 8% trong tổng số 7,4 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng và đây là ngưỡng an toàn. Đặc biệt năm 2018, tốc độ tăng tín dụng 12%, nhưng tín dụng bất động sản chỉ hơn 5%, thậm chí quý cuối năm còn tăng trưởng âm.
Video đang HOT
“Chính phủ đã rà phanh thị trường và đến nay dòng tiền đang giảm. Nếu tiếp tục có chính sách siết thêm sẽ có tác động không nhỏ tới bất động sản cũng như nhiều ngành kinh tế”, ông Hà nói.
Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cho rằng không chỉ ở Việt Nam, tại nhiều quốc gia khác, việc người dân vay tiền ngân hàng để mua bất động sản là khá phổ biến. Không có người dân ở nền kinh tế nào có đủ tài chính cho bất động sản mà không đi vay. Do đó, dù chính sách siết tín dụng bất động sản của NHNN có thể giúp kiểm soát thị trường, tránh phát triển quá nóng dẫn đến vỡ bong bóng, song lại thiếu tính ổn định, bền vững, cản trở sự phát triển của thị trường và làm hạn chế cơ hội phát triển kinh tế.
“Bất động sản là một phần của nền kinh tế, kéo theo ngành khác “ăn theo”. Thực tế, các ngành ăn theo bất động sản có thể chiếm tới 20-25% tổng sản phẩm quốc nội. Nếu các ngành này sụt giảm theo thị trường bất động sản thì phát triển kinh tế tất yếu sụt giảm, ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng GDP mà Quốc hội và Chính phủ đề ra” – ông Thành cảnh báo.
Cũng theo vị chuyên gia, từ năm 2016, Chính phủ đã có những động thái kiểm soát thị trường chặt chẽ hơn giai đoạn trước thông qua điều hành mức độ tín dụng rót vào bất động sản. Do vậy, tính đến thời điểm này, thị trường bất động sản khá ổn định, không có dấu hiệu phát triển quá nóng hay nguy cơ đổ vỡ. Do vậy, không cần thiết phải siết tín dụng vào thời điểm này. Mặt khác, nếu tiếp tục siết chặt hơn tín dụng vào bất động sản, không loại trừ tình huống khống chế “cửa” này thì tín dụng đi theo “cửa” khác ra thị trường.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn GP Invest cho rằng, ở góc độ vĩ mô, cần xem xét chủ trương kiểm soát chặt tín dụng bất động sản để tránh gây ra những trục trặc vĩ mô. Bởi khi thị trường bất động sản bị chậm lại cũng đồng nghĩa các ngành liên quan như vật liệu, sắt thép, xi măng, nội thất… bị ảnh hưởng và tác động đến tăng trưởng GDP. Bất động sản là lĩnh vực quan trọng, đóng góp lớn cho GDP.
“Chúng ta cầm một con dao sắc nhưng nếu không cẩn thận thì dễ đứt tay. Nếu chính sách vận dụng tốt thì lĩnh vực này sẽ thúc đẩy GDP nhưng không khéo thì dẫn đến thị trường phát triển quá nóng. Ngược lại, nếu để lạnh quá lại khiến GDP tụt, không đạt được tốc độ tăng trưởng. Do đó, việc sử dụng công cụ như nào cần sự điều tiết hài hòa để không có những chính sách bất thường khiến thị trường lúc nóng lúc lạnh”, ông Hiệp phân tích.
Ở góc độ nguồn thu ngân sách, Hiệp hội Bất động sản TP. HCM (HoRE) cho rằng, quyết định siết tín dụng với bất động sản có thể khiến thị trường chao đảo, đồng thời tác động đến nguồn thu ngân sách.
Dẫn chứng, HoRE nêu từ tháng 3/2017 đến nay, thị trường bất động sản TP HCM liên tục bị sụt giảm. Năm 2018, quy mô thị trường giảm 34% so với năm 2017; riêng quý I/2019, số lượng dự án được Sở Xây dựng phê duyệt giảm đến 67%. Các thống kê khác cũng cho thấy số lượng căn hộ của TP. HCM giảm 57% so với cùng kỳ năm ngoái. Diễn biến trên dẫn đến thu ngân sách từ tiền sử dụng đất giảm khoảng 70%.
Phương Dung
Theo Dân Trí
CIEM: Tăng trưởng kinh tế năm 2018 có thể đạt mức 6,88%
Việt Nam bước vào quý III với những kỳ vọng và lo ngại đan xen, nhưng đã đạt được kết quả tốt trong quý III và dự báo sẽ đạt vượt mục tiêu kế hoạch đề ra cho cả năm 2018
Ảnh: Dũng Minh
Đó là nhận định của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đưa ra tại Hội thảo "Kinh tế Việt Nam: Tiếp tục khơi dòng cải cách và củng cố niềm tin đầu tư" do đơn vị này phối hợp với Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) tổ chức ngày 17/10.
GDP tăng tốt, CPI có diễn biến phức tạp
Theo số liệu công bố của CIEM, tốc độ tăng GDP đạt 6,88% trong quý III và 6,98% trong 9 tháng đầu năm, cao hơn cùng kỳ nhiều năm trước đó. Nhờ đó, áp lực thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong quý IV giảm đáng kể.
Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục duy trì đà phục hồi, tăng 3,46% so với cùng kỳ nhờ một số yếu tố như giá bán sản phẩm ổn định, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hiệu quả từ chuyển đổi cơ cấu ngành và việc triển khai nhiều hoạt động thúc đẩy nông nghiệp sáng tạo và đổi mới.
Khu vực công nghiệp - xây dựng lấy lại đà tăng trưởng vững chắc hơn, đạt 8,61%.
Tốc độ tăng GDP chung có thể cao hơn nếu đóng góp (điểm phần trăm) của phân ngành khai khoáng tương đương với mức trung bình của giai đoạn 2011 - 2015. Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ đạt 6,87%, giảm so với cùng kỳ các năm 2016-2017.
Quý III chứng kiến những diễn biến phức tạp hơn của chỉ số giá tiêu dùng, giảm 0,09% trong tháng 7, sau đó tăng lần lượt 0,45% và 0,59% trong các tháng 8 và 9. CPI bình quân tăng 4,14% trong quý và 3,57% trong 9 tháng đầu năm.
Lãi suất, tỷ giá biến động
Lãi suất huy động VND tăng tại một số thời điểm trong quý III, chủ yếu với kỳ hạn dài. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất không kỳ hạn, ngắn hạn biến động không nhiều.
Diễn biến lãi suất huy động chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: Tín dụng tăng trưởng chậm; điều chỉnh lãi suất liên ngân hàng theo hướng ưu tiên giảm sức ép đối với tỷ giá VND/USD; cạnh tranh thị phần giữa các ngân hàng thương mại để chuẩn bị vốn cho nhu cầu tín dụng cuối năm và đầu năm 2019; gia tăng áp lực lạm phát tại một số thời điểm.
Dư nợ tín dụng tăng chậm hơn với dư nợ tín dụng tại thời điểm 28/9 tăng 2,4% so với cuối quý II và 10,4% so với cuối năm 2017.
Nguyên nhân là do Ngân hàng Nhà nước ưu tiên ứng phó với tác động từ leo thang chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc và mục tiêu kiểm soát lạm phát, thay vì thúc đẩy giải ngân tín dụng. Truyền thông về việc tiến tới chấm dứt tín dụng ngoại tệ. Quyết tâm tăng kỷ luật thị trường (trong đó có các chỉ số an toàn hoạt động của ngân hàng). Ngân hàng Nhà nước chưa nới lỏng tín dụng cho một số ngành (chứng khoán, bất động sản).
Tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng 8,74% so với cuối năm 2017 và 0,33% so với cuối quý II. Thị trường ngoại hối biến động nhiều hơn.
Tỷ giá bán ra của ngân hàng thương mại khá ổn định đến giữa tháng 7, sau đó tăng lên ở mặt bằng mới và gần hơn với mức trần cho phép. Tỷ giá trên thị trường tự do luôn vượt tỷ giá của NHTM. NHNN đã kết hợp linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách để giúp giảm áp lực đối với tỷ giá.
Nhu cầu đầu tư tiếp tục tăng
Đáng chú ý, báo cáo của CIEM cho thấy xu hướng gia tăng đầu tư tiếp diễn trong quý. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12,5% so với cùng kỳ 2017 và 21,6% so với quý II.
Tỷ lệ đầu tư so với GDP đạt 35,9% trong quý III và 34,0% trong 9 tháng đầu năm. Giải ngân vốn trái phiếu chính phủ trong 9 tháng đầu năm tăng tới 89,1%.
Khu vực ngoài nhà nước tiếp tục đóng góp chủ yếu vào mở rộng đầu tư, với mức tăng nhanh nhất và tỷ trọng lớn nhất. Trong khi đó, tốc độ tăng đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn so với khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.
Kết quả dự báo của CIEM cho thấy, tăng trưởng kinh tế năm 2018 có thể đạt mức 6,88%. Tăng trưởng xuất khẩu cả năm dự báo ở mức 13,34%. Thặng dư thương mại dự báo ở mức 5,1 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2018 đạt 3,97%.
Theo ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM, giai đoạn 9 tháng đầu năm đã giúp hình dung tốt hơn về bối cảnh và kết quả phát triển kinh tế - xã hội cả năm 2018.
"Tăng trưởng kinh tế không suy giảm liên tục qua các quý như lo ngại. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản diễn biến tích cực. Quan trọng hơn, Việt Nam bước đầu đã thể hiện được năng lực ứng phó với các biến động bất lợi (về tỷ giá, lãi suất, v.v.) từ thị trường thế giới truyền tải qua các kênh hội nhập kinh tế quốc tế.
Những chuyển biến ấy càng đáng lưu tâm hơn khi bối cảnh điều hành hiện tại (áp lực lạm phát trong nước và rủi ro suy giảm tổng cầu của kinh tế thế giới) khá giống - dù ở mức độ thấp hơn - so với giai đoạn cuối quý III, đầu quý IV/2008", ông Cung nhận định.
Theo đánh giá của ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (CIEM), trong thời gian từ nay tới cuối năm và tiếp tục sang năm 2019, bối cảnh thương mại và thị trường thế giới sẽ tiếp tục có nhiều biến động lớn, đặc biệt là diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc và chính sách lãi suất của Mỹ, đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam trong điều hành kinh tế vĩ mô.
Trong bối cảnh này, Chính phủ nhấn mạnh yêu cầu củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, nhằm tạo thêm dư địa chính sách và cải thiện khả năng chống chịu trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động. Song song là những nỗ lực vận động, thúc đẩy phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do quan trọng và khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân.
"Để thực hiện các mục tiêu này, thông điệp nhất quán về việc ưu tiên chính sách là cần tiếp tục tập trung vào cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn với sáng tạo và môi trường, gắn với xử lý hiệu quả những rủi ro trong môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động", ông Dương khuyến nghị.
Hiếu Minh
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
4,5 tỷ USD sắp đổ vào thị trường chứng khoán Việt Theo tính toán của MBS, nếu TTCK Việt được nâng hạng tỷ trọng 0,3% thì thu hút khoảng 4,5 tỷ USD vào thị trường. Tại hội thảo "Câu chuyện nâng hạng và triển vọng tươi sáng từ Emerging Market", ông Hoàng Công Tuấn, Trưởng phòng Phân tích Vĩ mô của CTCP Chứng khoán MB (MBS) đưa ra nhận định TTCK Việt Nam có...