“Bảo vật” trên cổng Tử Cấm Thành có tiền chẳng đổi được: Hậu thế không ai chạm vào
Sự tồn tại của những “ nốt sần” trên cổng Tử Cấm Thành là thứ được hoàng đế coi trọng, thậm chí ban hẳn quy định để trừng phạt kẻ nào dám mạo phạm.
Những ai đã từng đến Tử Cấm Thành hoặc biết đến qua các bộ phim điện ảnh và truyền hình đều biết rằng cửa nào của công trình này có nhiều “vết mụn” lồi lõm. Nhiều người tò mò không biết những vết sần trên cửa này là gì? Chúng có công dụng ra sao? Ngoài ra, điều được người ta quan tâm hơn cả đó là lệnh cấm không ai được sờ vào. Rốt cuộc có “ uẩn khúc” gì ở đây?
NGUỒN GỐC CỦA NHỮNG “NỐT SẦN”
Ngày nay, do cuộc sống thay đổi nên hầu hết các ngôi nhà ở Trung Quốc không còn kiểu cổng giống như Tử Cấm Thành. Tuy nhiên vào thời xưa, chi tiết này rất phổ biến, chúng không chỉ có trên cổng cung điện mà còn xuất hiện ở cổng nhà của những người giàu có. Người xưa gọi đây là “đinh cửa”.
Trái với tưởng tượng của nhiều người, ban đầu những chiếc đinh này sinh ra không phải vì tính thẩm mỹ, mà xuất phát từ ý nghĩa thiết thực. Vào thời cổ đại, nguyên liệu thô để làm vật liệu xây dựng còn hạn chế, và cửa của mỗi hộ gia đình đều được làm bằng gỗ.
Khi đó không có ván ghép và cũng không có cây lớn nên người ta chỉ có thể dùng cách ghép các miếng gỗ lại với nhau để tạo ra một tấm ván lớn. Như trường hợp cổng của Tử Cấm Thành, do có kích thước lớn nên cần nhiều miếng gỗ ghép lại với nhau.
Trong quá trình này, người thợ mộc phải dùng đinh gỗ. Một số trường hợp còn phải dùng dây thừng luồn qua để cửa ghép được chắc chắn và đẹp hơn.
Hình minh họa. Ảnh: Sohu
Tuy nhiên, phương pháp nối này cũng có một điểm hạn chế đó là phần đầu chốt gỗ sẽ bị lộ ra ngoài. Vì đầu chốt rất sắc nên khi mở cửa vô tình tay của mọi người sẽ bị trầy xước. Còn những chiếc đinh gỗ lộ ra ngoài không đẹp nên người xưa đã nghĩ ra một phương pháp để giải quyết vấn đề này.
Họ dùng vật có đầu tròn che phần đinh nhô ra, để không ai bị thương. Ban đầu, chính Lỗ Ban là người nghĩ ra ý tưởng này và áp dụng nó vào thực tế. Kết quả là những chiếc “đinh cửa” ra đời. Ban đầu chúng được làm bằng gỗ, không chịu được mài mòn theo năm tháng và rất dễ hư hỏng.
Sau đó, Mặc Tử đã cải tiến trên và nâng cấp đinh cửa gỗ thành đinh cửa đồng. Sau này đinh cửa đồng dần trở nên phổ biến. Những chiếc đinh trên cổng Tử Cấm Thành mà chúng ta thấy ngày nay cũng là đinh đồng.
ĐINH CỬA – BIỂU TƯỢNG CỦA QUYỀN UY
Vốn dĩ cây đinh cửa chỉ là một vật dụng rất bình thường, đại diện cho trí tuệ của người dân lao động xưa. Sau đó, vào thời nhà Thanh, chiếc đinh này được mang một ý nghĩa khác và trở thành biểu tượng của “đẳng cấp phong kiến”.
Ở thời cổ đại, hệ thống cấp bậc rất nghiêm ngặt, Hoàng đế là người được tôn trọng nhất trong thiên hạ, có địa vị cao nhất, tiếp đến là các quan, sau đó đến thường dân, địa vị giảm dần theo thứ tự. Hoàng đế của triều đại nhà Thanh coi chiếc đinh này là biểu tượng của quyền uy và xây dựng các quy định về việc sử dụng đinh cửa.
Hình minh họa. Ảnh: Secret China
Video đang HOT
Chẳng hạn, nhà Thanh quy định chỉ có cổng của Hoàng đế mới được dùng 81 chiếc đinh cửa, trong đó 9 chiếc đinh ngang và 9 chiếc đinh dọc. Cổng vương phủ cũng chỉ được dùng 49 chín chiếc đinh cửa, trong đó 7 chiếc đinh ngang và 7 chiếc đinh dọc. Theo mức độ cấp bậc, số lượng sẽ lần lượt giảm đi. Nếu ai cả gan vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Bên cạnh đó, đinh cửa không chỉ có tác dụng thể hiện cấp bậc, mà còn mang ý nghĩa thịnh vượng. Trong qua niệm của dân gian, những chiếc đinh cửa trên Tử Cấm Thành còn đặc biệt hơn vì chúng mang khí tức của đế vương, có tác dụng trừ tà ma.
Trong ghi chép của một số văn nhân thời nhà Thanh có nhắc: Trong lễ hội đèn lồng hàng năm, người dân sẽ tập trung ở cổng cung điện để chạm vào đinh trên cửa Tử Cấm Thành với mục đích cầu may mắn, xua đuổi vận xui.
Đây là dịp duy nhất Hoàng đế cho phép người dân chạm vào đinh cửa nên thậm chí có người từ ngàn dặm chỉ để được sờ đinh trên cổng Tử Cấm Thành.
Vào thời đó, dân thường mỗi năm chỉ có cơ hội chạm vào một lần nên không ảnh hưởng gì nhiều. Ngoài ra, hàng năm những chiếc đinh này cũng được thay mới để đảm bảo tính thẩm mỹ.
NGÀY NAY KHÔNG AI ĐƯỢC ĐỤNG TỚI
Tuy nhiên, theo sự phát triển và thay đổi của lịch sử và xã hội, các quy định đã rất khác. Nhiều du khách đã nghe nói về những chiếc đinh trên cổng mang lại may mắn nên muốn được chạm vào khi đến thăm Tử Cấm Thành.
Do lượng khách đông nên Ban quản lý buộc phải sử dụng biện pháp để bảo vệ. Ảnh: GOV
Xét theo thời gian, những chiếc đinh trên cổng đã trải qua hơn 600 năm đổi thay của Tử Cấm Thành. Nay chúng đã là di tích văn hóa cấp quốc gia, được bảo vệ nghiêm ngặt. Do đó, du khách không thể thoải mái chạm vào như trước nữa.
Thêm vào đó, Tử Cấm Thành là địa danh có lượng người qua lại cực kỳ lớn. Chỉ cần mỗi người chạm nhẹ một lần, những chiếc đinh này cũng khó mà trụ nổi. Có người cho rằng, hỏng thì có thể thay thế được, nhưng khi đã là di tích lịch sử thì làm sao có thể thay thế được?
Do đó, để tránh cho những chiếc đinh cửa bị hư hại, những người quản lý Tử Cấm Thành đã phải nghĩ ra phương pháp bảo vệ tất cả những chiếc đinh cửa này bằng một tấm kính che. Kể từ đó, dù là du khách tham quan hay bất cứ ai cũng không được chạm vào những chiếc đinh này nữa.
Bật nắp quan tài cổ, ở trong có bức tượng với tư thế “độc” khiến ai nấy cũng phải đỏ mặt
Bức tranh 'ma quái' được lưu giữ trong Tử Cấm Thành, ý nghĩa ẩn giấu đằng sau khiến hậu thế run sợ, nhìn thấy lập tức đi đường vòng
Bức tranh "ma quái" trong Cố cung khiến ai ai cũng phải kinh sợ.
Trong Tử Cấm Thành (hay còn gọi là Cố Cung) có lưu giữ một bức tranh "ma quái", phía sau ẩn chứa một câu chuyện cực kỳ đáng sợ. Tên của bức tranh là "Cô Lâu Hoan Hí Đồ" được vẽ bởi đôi tay tài hoa của họa sĩ thời Nam Tống - Lý Tung.
Bức tranh "ma quái" vẽ về cái gì?
Một nghệ nhân điều khiển rối đang ngồi bệt trên đất dùng những sợi dây mỏng manh điều khiển con rối hình xương người nhỏ bé. Bên cạnh nghệ nhân là một gánh hàng có đựng nhiều vật dụng thường ngày như ghế cỏ, chiếc ô, chiếu nằm,... Trông có vẻ đây chính là một người mãi nghệ đường phố để kiếm tiền lo toan cho gia đình.
Phía sau nghệ nhân là người vợ đang cho con bú. Bên phải bức tranh là một em bé đang bị thu hút bởi bộ xương nhỏ chuyển động, phía sau còn có một người phụ nữ đang trong tư thế giơ tay, lo lắng con mình gặp phải chuyện hiểm nguy.
Chủ quan bệnh nhẹ tự điều trị tại nhà, chưa tiêm vaccine covid-19, F0 ở Hà Nội nhập viện trong tình trạng nguy kịch hầu hết đều tử vong
Chi tiết khiến cho bức tranh trở nên rùng rợn chính là: Thứ đang thao túng con rối hình xương không phải là nghệ nhân đường phố, mà lại là một bộ xương khô.
Có người nói, bộ xương là một người đã qua đời, nhưng vì chấp niệm lo toan cho gia đình và con cái chưa hoàn thành nên mới hiện hồn trở về. Đối với những nghệ nhân đường phố, lang thang khắp đầu đường xó chợ "lấy đất và trời làm nhà" chính là số phận của họ.
Chủ đề của bức tranh
Chủ đề trọng tâm của bức tranh chính là nhân quả luân hồi và sự chuyển hóa giữa sự sống và cái chết. Họa sĩ đã chia bức tranh ra thành hai phần, một bên là sống và một bên là chết.
Phần bên trái vẽ bộ xương khô lớn với đầu đội mũ trùm, thân mặc áo mỏng, thể hiện ý nghĩa về cái chết lụi tàn của người nghệ nhân điều khiển rối. Phần bên phải vẽ em bé đang bò trên nền đất, ngẩng đầu vươn tay khát khao chạm vào thứ gì đó, tượng trưng cho sự sống mới chớm nở. Sự sống và cái chết đối lập nhưng lại hấp dẫn lẫn nhau.
Phần trung tâm của bức tranh là hình ảnh bộ xương nhỏ đang cong người vẫy tay mời gọi đứa bé đến bên mình được điều khiển bởi nghệ nhân "xương khô". Đây chính là thủ pháp ẩn ý "kịch lồng trong kịch" được thể hiện dưới nét vẽ tài tình của danh họa Lý Tung.
Phía sau nghệ nhân "xương khô" là người phụ nữ đang cho con bú nhưng sắc mặt lại bất an, chuyên chú nhìn hai mẹ con ngoài kia. Hình ảnh này hoàn toàn đối lập với người phụ nữ đang vui vẻ vươn tay muốn ngăn cản con trai bị hấp dẫn bởi bộ xương múa rối. Đây là sự kết hợp giữa tĩnh và động, giữa suy nghĩ và hành động.
Kết cấu của bức tranh
Họa sĩ đã sử dụng hàng loạt các hình ảnh như bến tàu, gánh hàng cùng với những đường vẽ dày đặc bao quanh người nghệ nhân "xương khô" để tăng cảm giác u tối, rùng rợn và đáng sợ để thể hiện ý nghĩa cái chết.
Đồng thời, hai mẹ con bên góc phải của bức tranh lại được đặt trong nền vẽ đơn giản, hầu như không có bất kỳ hình ảnh nào khác. Điều này có dụng ý nhấn mạnh cảm giác hoan hỷ, vui tươi và sáng sủa của sự sống ngập tràn.
Kỹ thuật vẽ tranh
Chỉ bằng thủ pháp vẽ tranh bằng bút lông và mực mài, Lý Tung đã đưa kỹ thuật hội họa lên tầm cao mới với đường nét cứng cáp và chắc chắn, màu mực thanh mảnh và tinh tế.
Sợi tơ, áo mỏng, tấm lưới,... đều được thể hiện một cách sống động như thật. Hình ảnh những món đồ nhỏ được phác họa một cách gọn gàng, tỉ mỉ, giúp cho bức tranh càng thêm mượt mà, nét nhiều nhưng không bị rối.
Da và xương được phác họa bằng kỹ thuật tạo nét khác nhau. Nét vẽ xương cứng cáp, mạnh mẽ. Nét vẽ da thì uyển chuyển, tròn trịa, căng tràn và tạo cảm giác đàn hồi.
Họa sĩ đã sử dụng phương pháp "lớp chồng lớp" để vẽ màu cho bức tranh. Công tác tô màu vô cùng cẩn thận, đầy tính cổ điển, mang đậm sắc thái của kỹ thuật vẽ tranh thời Tống.
Tác giả
Lý Tung (1166 - 1243), là danh hoạ thời Nam Tống, người ở Tiền Đường (nay thuộc Hàng Châu, Chiết Giang). Thời trẻ, ông là thợ đóng mộc, sau này mới trở thành con nuôi của Lý Tòng Huấn theo học vẽ tranh trong Họa viện. Ông giỏi nhất vẽ người và tượng Phật.
Lý Tung xuất thân trong gia đình bần hàn nên ông thấm nhuần phong cách sống giản dị của dân gian đời thường. Về sau, ông trở thành danh họa làm việc trong cung đình, được tôn thành "Họa sư của tam triều" (Quang Tông, Ninh Tông, Lý Tông).
Vậy thì tại sao Lý Tung lại đặt bố cục trọng tâm và nét vẽ tinh xảo nhất vào bộ xương khô?
Danh họa nhà Nguyên - Hoàng Công Vọng đã nhận xét về bức tranh "Cô Lâu Hoan Hí Đồ" như sau:
Không có thịt, cũng chẳng có da, nhưng vẫn thể hiện được nét khổ tâm và u buồn. Nghệ nhân điều khiển rối còn chế tạo thêm một mô hình nhỏ giống hệt bản thân để mua vui cho người khác.
Hoàng Công Vọng cho rằng bức tranh của Lý Tung lột tả cảnh nghệ nhân dân gian một thân một mình lưu lạc khắp thiên hạ, ăn gió nằm sương, thảm đến mức người khô rạc chỉ còn bộ xương khô. Nhân vật này có thật sự là nghệ nhân điều khiển rối, hay đó chính là một hiện thực tàn khốc trong xã hội lúc bấy giờ?
Tuy nhiên, nếu như quan sát kỹ hơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra hai người phụ nữ có con không hề nghèo một chút nào, thậm chí phong thái của họ còn toát lên vẻ quyền quý, cao sang của tầng lớp quý tộc.
Nhiều chuyên gia cho rằng bức tranh thể hiện lên những nỗi niềm về cái chết. Giai đoạn Tĩnh Khang (1126 - 1127), Nam Tống loạn lạc, giao tranh không ngừng, đâu đâu cũng là xác chết nằm ngổn ngang. Bức tranh là sự đối lập giữa sự sống và cái chết, đồng thời sống chết luôn tồn tại cùng lúc. Trong đó, có người nhìn thấy quỷ, có người nhìn thấy được sự toan tính và âm mưu, có người nhìn thấy được sống và chết,...
Giật mình nguyên nhân cung điện trong Tử Cấm Thành quanh năm lạnh giá Dưỡng Tâm Điện là cung điện lớn trong Tử Cấm Thành. Dù là mùa Hè hay mùa Đông thì nơi này luôn lạnh giá. Khi kiểm tra sàn nhà, họ phát hiện bí mật lớn. Tử Cấm Thành là cung điện hoàng gia nổi tiếng của triều đại nhà Minh và nhà Thanh trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Là nơi ở...