Băn khoăn bài toán tăng vốn tại nhiều doanh nghiệp
Nhiều doanh nghiệp đã và đang lên kế hoạch chào bán cổ phiếu tăng vốn trong năm nay. Phía sau không ít kế hoạch tăng vốn này là những băn khoăn của nhà đầu tư.
MBG: Chuẩn bị phát hành riêng lẻ với giá gấp đôi thị giá
Sau khi được Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án chào bán riêng lẻ để tăng vốn điều lệ, ngày 1/7/2020, Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn MBG đã ra nghị quyết thông qua chi tiết phương án chào bán 25 triệu cổ phiếu để tăng vốn từ 430 tỷ đồng lên 681 tỷ đồng, tương đương với tỷ lệ 58,4%.
Trong danh sách nhà đầu tư dự kiến, Công ty TNHH AAI Quốc Tế mua 6,5 triệu cổ phiếu và Công ty TNHH Quang Ngân Việt Nam mua 6 triệu cổ phiếu, phần còn lại được phân bổ cho 6 nhà đầu tư cá nhân. Như vậy, sau đợt phát hành này, MBG sẽ có thêm 2 cổ đông lớn là nhà đầu tư tổ chức, với tỷ lệ sở hữu lần lượt là 9,55% và 8,81%, trong khi các nhà đầu tư cá nhân đều sở hữu dưới 5%.
Mức giá chào bán dự kiến là 10.000 đồng/cổ phiếu, tương đương MBG huy động 250 tỷ đồng, dùng bổ sung vốn lưu động như mua nguyên vật liệu để sản xuất thiết bị chiếu sáng Maxxbau, nguyên liệu sản xuất sơn, mua vật tư hàng hóa thương mại và một số máy móc, thiết bị khác. Mức giá phát hành này cao gần gấp đôi thị giá cổ phiếu MBG trên sàn chứng khoán khi kết thúc phiên 3/7 là 5.100 đồng/cổ phiếu.
Vì sao các nhà đầu tư sẵn sàng góp vốn với giá cao và chấp nhận hạn chế chuyển nhượng, trong khi với thanh khoản 30 phiên gần nhất (tính đến 2/7/2020) đạt hơn 3 triệu đơn vị/phiên, có phiên khớp lệnh đến 8 triệu đơn vị, họ có thể dễ dàng mua được số cổ phiếu tương ứng trên sàn với giá rẻ hơn nhiều?
Đây không phải lần đầu tiên MBG gây chú ý xung quanh câu chuyện huy động vốn. Cụ thể, tháng 11/2018, MBG chào bán riêng lẻ 20 triệu cổ phiếu để tăng vốn cho 14 cá nhân với giá 10.000 đồng/cổ phiếu, trong khi thị giá là 4.500 đồng/cổ phiếu. Sau đợt tăng vốn này, giá cổ phiếu MBG tăng phi mã trong năm 2019 và đến thời điểm hết hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu phát hành thêm đạt trên ngưỡng 30.000 đồng/cổ phiếu.
Trước đó, tháng 4/2017, MBG tăng vốn thông qua chào bán cho cổ đông theo tỷ lệ 1:1,5 với giá 10.000 đồng/cổ phiếu, trong khi thị giá chưa đến 4.000 đồng/cổ phiếu. Có đến 81,88% lượng cổ phiếu chào bán bị cổ đông bỏ quyền mua, số cổ phiếu này sau đó được phân phối cho 11 nhà đầu tư.
Trong số nhà đầu tư dự kiến mua cổ phiếu MGB năm nay, đáng chú ý là ông Nguyễn Thành Trung – người đại diện theo pháp luật của AAI Quốc Tế từng mua 2,01 triệu cổ phiếu trong đợt chào bán riêng lẻ năm 2018.
AAI Quốc Tế từng là cổ đông lớn nhất tại MBG với tỷ lệ sở hữu 6,64% trước khi thoái gần như hết vốn vào cuối tháng 3/2020 và là bên liên quan với MBG khi 2 lãnh đạo của MBG từng góp vốn vào doanh nghiệp. Cùng thời điểm AAI Quốc Tế thoái vốn, một cổ đông lớn khác của MBG là bà Ngô Thị Huệ cũng bán phần lớn cổ phần nắm giữ.
Như vậy, sau nhiều đợt chào bán riêng lẻ nhằm thu hút các nhà đầu tư chiến lược gắn bó lâu dài, hiện MBG không còn cổ đông lớn.
Sau đợt tăng giá trong năm 2019, thị giá cổ phiếu MBG đã giảm trở lại và mất hơn 80% giá trị trong 7 tháng trở lại đây, dù Công ty ước tính đạt kết quả kinh doanh khả quan trong 5 tháng đầu năm 2020, thực hiện được gần 90% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
TLD: Thị giá tăng mạnh nhưng vẫn thấp hơn giá chào bán
Sau khi niêm yết tháng 12/2017, giá cổ phiếu TLD của Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long chủ yếu có diễn biến giảm, từ tháng 9/2019 đến tháng 4/2020 đi ngang quanh mức 4.500 đồng/cổ phiếu. Tuy nhiên, tình hình hoàn toàn thay đổi trong vòng 2 tháng trở lại đây.
Cụ thể, nếu như trong tháng 5/2020, cổ phiếu TLD có đợt tăng giá 33%, từ 4.500 đồng/cổ phiếu lên 6.000 đồng/cổ phiếu, thì sau một nhịp nghỉ, đà tăng quay trở lại và đóng cửa phiên giao dịch 2/7 tại 7.390 đồng/cổ phiếu, nâng tổng mức tăng trong 2 tháng qua lên gần 100%.
Đợt tăng giá diễn ra trong bối cảnh Công ty tiến hành chào bán 9,36 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu và phát hành 10 triệu cổ phiếu riêng lẻ với mức giá bằng mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu.
Theo phương án dự kiến, số vốn huy động được sẽ dùng để xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị và bổ sung vốn lưu động cho nhà máy ván ép phủ phin và ván ép phủ keo đỏ tại Khu công nghiệp Bắc Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, có công suất thiết kế 60.000 m3/năm, tổng vốn đầu tư khái toán 250 tỷ đồng.
Video đang HOT
Dù tăng giá mạnh trong 2 tháng qua, nhưng thị giá cổ phiếu TLD vẫn còn cách khá xa mức giá chào bán, đây sẽ là yếu tố khiến các cổ đông phải cân nhắc trước khi xuống tiền thực hiện quyền mua, khi mà danh sách cổ đông đã được chốt từ ngày 22/6/2020.
Với hạn chót nộp tiền đến ngày 25/8 và đà tăng giá vẫn đang diễn ra, có thể thị giá cổ phiếu TLD sẽ vượt qua giá chào bán, tạo điều kiện để đợt phát hành thành công. Tuy vậy, diễn biến tăng giá nhanh, trong khi tình hình kinh doanh còn nhiều khó khăn dẫn đến lo ngại về khoảng trống sau đợt tăng giá này.
Kết thúc năm 2019, doanh thu hợp nhất của TLD tăng 9,5% so với năm 2018, đạt 337,8 tỷ đồng, nhưng giá vốn tăng cao khiến lợi nhuận gộp giảm 24,8%. Trừ các chi phí, kết quả thu về là 13,55 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, giảm 33,8% so với năm 2018. Ngoài ra, việc liên tục đầu tư khiến nợ vay của Công ty có xu hướng tăng cao, dư nợ đến cuối năm 2019 đạt 90 tỷ đồng, tăng 50% so với đầu năm.
Trong quý I/2020, doanh thu và lợi nhuận của TLD tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, nhưng so với kế hoạch cả năm vừa được Đại hội đồng cổ đông thông qua thì lợi nhuận mới chỉ đạt khoảng 20% (kế hoạch lợi nhuận sau thuế là 23,5 tỷ đồng, tăng 97,5%, còn doanh thu tăng 9,5% so với thực hiện năm 2019). Đáng lưu ý, dòng tiền kinh doanh trong quý I âm lớn do các khoản phải thu tăng, dư nợ theo đó cũng tăng.
Trong bối cảnh nguồn lực dự trữ còn mỏng, nhu cầu đầu tư tiếp tục ở mức cao, dòng tiền được đánh giá sẽ là áp lực đáng kể với TLD. Việc tăng cường vay nợ cũng sẽ khiến lãi vay gia tăng và tạo áp lực lên lợi nhuận, nhất là khi các dự án đầu tư hoàn thành và chi phí lãi vay đầu tư không còn được vốn hóa.
HTN: Vừa trả cổ tức tiền mặt, vừa tăng vốn
Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần Hưng Thịnh Incons (HTN) ngày 30/6/2020 đã thông qua phương án chào bán 16,5 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ và bổ sung vốn cho hoạt động kinh doanh, tỷ lệ tăng vốn là 50%.
Thiếu vốn, lên kế hoạch huy động vốn của cổ đông, HTN có phương án phân phối lợi nhuận năm 2019 là trả cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 18%, tăng 3% so với dự kiến ban đầu.
Về đề xuất chia cổ tức bằng cổ phiếu, Ban lãnh đạo Công ty cho rằng, với giá cổ phiếu HTN đang giao dịch trên thị trường khoảng 17.000 – 18.000 đồng/cổ phiếu, nếu chia cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm pha loãng giá sau chia, ảnh hưởng tới việc phát hành cổ phiếu mới.
Như vậy, giả định việc chốt danh sách cổ đông để chào bán tăng vốn và trả cổ tức của HTN diễn ra đồng thời, mỗi cổ đông sở hữu 2 cổ phiếu HTN sẽ được nhận cổ tức 3.420 đồng (cổ tức 1.800 đồng/cổ phiếu và bị trừ thuế thu nhập cá nhân 5%), sau đó cần chi thêm 6.580 đồng/cổ phiếu để đủ 10.000 đồng mua 1 cổ phiếu phát hành thêm. Có thể thấy, cổ đông dường như bị thiệt hại nhiều hơn khi thị giá cổ phiếu vừa bị điều chỉnh giảm do trả cổ tức tiền mặt, vừa bị điều chỉnh pha loãng do doanh nghiệp phát hành quyền mua thấp hơn thị giá, đồng thời phải nộp thuế cổ tức.
Tại đại hội năm nay, Hội đồng quản trị HTN đã trình kế hoạch tổng doanh thu 4.174,7 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 285,8 tỷ đồng, lần lượt tăng 13% và 53% so với thực hiện năm 2019. Trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp xây dựng cùng ngành như Coteccons, Hòa Bình phải lên kế hoạch doanh thu, lợi nhuận suy giảm do nhận định thị trường có nhiều khó khăn, thì HTN là một trong số ít doanh nghiệp lên kế hoạch tăng trưởng cao.
Trong quý I/2020, HTN ghi nhận doanh thu gấp 2,1 lần và lợi nhuận sau thuế gấp 7,1 lần cùng kỳ năm 2019. Kết quả này có đóng góp đáng kể từ khoản thu mảng bất động sản đầu tư, trong khi doanh thu và lợi nhuận mảng xây dựng giảm mạnh.
CMX: Sức ép pha loãng
Công ty cổ phần Camimex Group (CMX) đã thông qua một loạt phương án tăng vốn bao gồm thưởng hơn 2,64 triệu cổ phiếu cho cổ đông, phát hành 1,32 triệu cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động (ESOP). Sau 2 đợt phát hành trên, Công tysẽ chào bán cổ phần cho cổ đông theo tỷ lệ 1:1, tương đương 30,4 triệu cổ phiếu, với giá 10.000 đồng/cổ phiếu, nhằm bổ sung vốn lưu động, cơ cấu lại các khoản nợ.
Trước đó, CMX hoàn thành đợt chào bán tăng vốn lên gấp đôi trong tháng 3/2020. Như vậy, nếu kịp hoàn tất các đợt tăng vốn theo kế hoạch vừa được thông qua, quy mô vốn của Công ty sẽ đạt 608 tỷ đồng, tăng 4,6 lần so với đầu năm.
Năm nay, CMX lên kế hoạch kim ngạch xuất khẩu 60 triệu USD, tăng 86%, tổng doanh thu tăng 48,2%, lợi nhuận trước thuế 100 tỷ đồng, tăng 8,2% so với thực hiện năm 2019, lợi nhuận sau thuế 90 tỷ đồng.
Lưu ý, trong báo cáo tài chính năm 2018 – 2019 của CMX, lợi nhuận sau thuế của cổ đông thiểu số tăng từ 47 triệu đồng năm 2018 lên 36,6 tỷ đồng năm 2019, trong khi lợi nhuận của cổ đông công ty mẹ giảm mạnh, nguyên nhân được đánh giá do tỷ lệ sở hữu của CMX tại các công ty con giảm sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Quản trị doanh nghiệp yếu, tranh chấp nảy sinh
Việc cổ đông chiến lược nước ngoài tại CTCP Coteccons (CTD) công bố tổ chức ĐHCĐ bất thường để bầu lại HĐQT do lo ngại xung đột lợi ích, đang đặt ra câu hỏi về vấn đề quản trị doanh nghiệp (QTDN), cao hơn nữa là tính chuyên nghiệp trong môi trường đầu tư tại DN Việt Nam hiện nay.
Hiện rất nhiều nhà đầu tư (NĐT) đang rất chú ý về việc cổ đông chiến lược nước ngoài Kustocem Pte. Ltd (Kusto) đang nắm giữ 17,55% cổ phần tại CTD, công bố tổ chức ĐHCĐ bất thường để biểu quyết về việc thay đổi HĐQT hiện tại, bầu ra HĐQT mới.
Phải tôn trọng đối tác chiến lược
Khi đề cập đến việc cổ đông chiến lược nước ngoài chủ động yêu cầu tổ chức/tổ chức ĐHCĐ bất thường như vậy, vấn đề đầu tiên cần bàn luận là DN Việt cần sự tôn trọng đối tác chiến lược. Bởi khi tìm đối tác chiến lược hợp tác với mình, DN Việt chỉ nghĩ đến việc thu hút được vốn đầu tư, trong khi vấn đề QTDN có tầm vóc lớn hơn.
Đó là khi lựa chọn đối tác, DN phải có trách nhiệm mang lại lợi ích nhất định cho họ, không thể chỉ dừng lại ở việc NĐT mua cổ phiếu trở thành đối tác chiến lược là xong, còn trong kinh doanh lời ăn lỗ chịu.
Chính vì lo ngại điều đó, các quỹ đầu tư, các tổ chức tài chính thường có những hợp đồng ràng buộc về các điều khoản cam kết và điều khoản hạn chế để quản trị rủi ro cho hoạt động đầu tư của họ. Trường hợp DN Ba Huân là điển hình cho thấy rõ yếu kém trong quá trình tìm kiếm đối tác và hiểu về đối tác.
CTD từ rất lâu đã lựa chọn cho mình một đối tác chiến lược không phải về tài chính, mà là công ty trong ngành cùng phát triển, là đầu ra hay cùng hợp tác để thi công dự án. Thông thường những đối tác cùng ngành không thể ngồi chung với nhau, bởi "một rừng không thể có hai hổ". Vì vậy, trong trường hợp này, bản thân DN phải hiểu rằng nếu không mang lại lợi ích tương xứng cho đối tác chiến lược, một ngày nào đó họ sẽ thâu tóm mình.
Hơn nữa, CTD lại có những vấn đề không chính danh đến từ công ty con Ricons, và đối tác chiến lược Kusto đã xoáy vào vấn đề này. Nhóm cổ đông lớn đã chỉ ra có vấn đề trong các hợp đồng F2, tức từ CTD có hợp đồng lớn sau đó có nhiều hợp đồng phụ, nhà thầu phụ. Nhưng nhà thầu đó là ai không được minh bạch, không có giá cả rõ ràng.
Thực ra Ricons chỉ là một trường hợp, bởi còn nhiều đối tác xung quanh vì hợp đồng chính có nhiều nhà thầu phụ. CTD đã làm cho đối tác không hài lòng về lợi ích. Hơn nữa, quản lý Ricons lại chính là các cổ đông sáng lập CTD.
Cổ đông lớn không thấy hài lòng về Ricons trên báo cáo tài chính (BCTC) nhưng họ không có bằng chứng. Thế nên, họ dùng quyền cổ đông lớn, muốn kiểm toán vào kiểm tra nội dung các khoản mục khác, không phải kiểm tra BCTC.
Song ông Nguyễn Sỹ Công, Tổng giám đốc CTD lại giải trình không đúng trọng tâm, cho rằng BCTC đã được kiểm toán bởi những công ty nổi tiếng nằm trong nhóm Big 4 để giải thích vấn đề.
Tôi cho rằng, khi DN ra biển lớn phải hiểu rõ, nếu DN đó là công ty nhà nước phải hoạt động theo các quy định quản lý tài chính nhà nước; nếu công ty TNHH MTV, chủ DN có thể làm theo ý mình. Nhưng khi DN đã có đối tác, đã là CTCP đại chúng bắt buộc, DN đó phải tuân thủ các yêu cầu về quản trị điều hành công ty, tức việc của công ty và việc của cá nhân phải rạch ròi. Trong luật đã có quy định rõ ràng những điều này.
Thế nhưng, khi DN chuyển đổi một công ty sang hình thức cổ phần đại chúng không nắm vấn đề này và trải qua bao nhiêu năm cũng không cập nhật kiến thức này, dẫn đến việc tổng giám đốc điều hành nghĩ mình là chủ. Vì thế, khi cổ đông chiến lược đòi truất phế HĐQT và ban điều hành, họ phản ứng mạnh. Đó là vấn đề đang diễn ra tại CTD.
Có thể hồi tưởng câu chuyện diễn ra tại Eximbank (EIB) gần đây cũng tương đồng với CTD ở điểm này. Cổ đông chiến lược Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC) có văn bản kiến nghị gửi HĐQT về việc triệu tập phiên họp bất thường riêng biệt, nhằm bãi nhiệm ông Yasuhiro Saitoh và cắt giảm quy mô HĐQT. EIB chọn cho mình một đối tác với mục đích hỗ trợ những chỗ còn có lỗ hổng, tức EIB yếu chỗ nào, đối tác sẽ hỗ trợ phát triển chỗ đó.
Nhưng đến nay, cổ đông phía EIB chia năm xẻ bảy, đấu đá để tranh giành lợi ích trong EIB, dẫn đến xung đột, ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Khác với CTD, cổ đông tại EIB là SMBC không thể thâu tóm NH do Luật về các TCTD của Việt Nam, hơn nữa họ cũng đã có văn phòng ở Việt Nam nên cũng không cần đi đến bước đó.
Thiếu chuyên nghiệp trong IR
Từ 2 trường hợp điển hình CTD và EIB và sự phản ứng của những cổ đông chiến lược, cho thấy sự mất lòng tin vào HĐQT, hay nói rộng hơn là sự yếu kém trong vấn đề quản trị DN của DN Việt.
Trở lại với CTD, trước những thông tin Kusto công bố, bản giải trình của ông Nguyễn Sỹ Công phản biện lại ý kiến của nhóm cổ đông lớn, cho thấy sự yếu kém về nghiệp vụ quan hệ NĐT (IR). Lời văn giải trình quá nhiều cảm xúc và thể hiện ẩn ý lôi kéo cán bộ nhân viên đồng tình cùng với mình.
Trong trường hợp này, lẽ ra cách truyền thông giải thích và phản ứng cần thiết trước cáo buộc của Kusto là: "Xem xét trên hợp đồng thuê tôi những năm qua tôi đã làm được gì, đã vượt kế hoạch chưa, hoàn tất kế hoạch kinh doanh chưa? Vậy không có lý do gì để tôi từ nhiệm".
Cách chức tổng giám đốc là quyền của cổ đông, nhưng bản thân tổng giám đốc phải truyền thông để cổ đông nhỏ thấy mình hoàn thành công việc, để cổ đông nhỏ ủng hộ mình, các quỹ đầu tư ủng hộ mình. Truyền thông như vậy cũng giúp công ty có uy tín với chủ nợ.
Bởi đối với ngành kinh doanh của CTD, chủ nợ rất quan trọng. Nếu chủ nợ không tin tưởng, một bên gửi công văn đòi nợ, các bên khác e ngại cho vay sẽ không thể thi công các dự án. Trường hợp này, cổ đông sáng lập muốn giành lại quyền mà không biết cách IR hoặc cách truyền thông.
Trong Luật DN 2014 có quy định, một cổ đông hoặc một nhóm cổ đông với thời hạn nắm giữ cổ phần 6 tháng liên tục có quyền triệu tập ĐHCĐ bất thường. Đầu tiên, nhóm cổ đông lớn gửi yêu cầu triệu tập đại hội và HĐQT xem xét đề nghị đó. Nếu sau 6 tháng, nội dung của họ không được HĐQT xem xét, họ có quyền được triệu tập ĐHCĐ. Như vậy, Kusto đã làm đúng theo quy định.
Cách đây 7 tháng, Kusto đã yêu cầu triệu tập ĐHCĐ bất thường, HĐQT họp bỏ phiếu và không thông qua do HĐQT có lợi thế về đối nhân. Kusto im lặng để làm đúng luật. Sau hơn 6 tháng họ mới đề nghị triệu tập ĐHCĐ bất thường.
Và như đã nói, họ được quyền triệu tập ĐHCĐ. Kusto đã gửi công văn đến Trung tâm lưu ký chứng khoán (VDS) và VDS phải chốt danh sách cho họ tổ chức ĐHCĐ.
Sự việc có thể sẽ không đi đến bước này nếu HĐQT hiện tại nắm được luật. Theo luật, sau 6 tháng cổ đông lớn mới có quyền triệu tập ĐHCĐ bất thường, trong thời gian đó HĐQT nên tổ chức ĐHCĐ thường niên.
Thông thường, ĐHCĐ bất thường nhằm để tiến hành việc nào đó, chẳng hạn như truất phế tư cách HĐQT. Nếu tổ chức ĐHCĐ thường niên không được có nội dung này, hoặc nếu có nội dung này cũng không dễ truất phế vì không có lý do chính đáng. Nhưng khi họp bất thường, họ được quyền truất phế vai trò chủ tịch HĐQT, khi đó HĐQT hiện tại sẽ thua.
Khi họp ĐHCĐ bất thường, tỷ lệ cổ phần của một công ty 100% chỉ cần có 80% tham dự, nhóm cổ đồng nào nắm giữ 40% hay 41% đã là quá bán, mọi quyết định đều do họ quyết. Chỉ cần đề nghị ai đó thay thế, bầu bổ sung, họ bầu sẽ trúng cử ngay. Đồng thời, khi truất phế một người, cổ đông lớn sẽ thay thế người đó.
Còn nếu họp ĐHCĐ thường niên, HĐQT có thể hủy bỏ tất cả tư cách bởi nhóm cổ đông lớn hủy bỏ tư cách HĐQT không có lý do, HĐQT cũng đề nghị hủy bỏ hết tư cách HĐQT của tất cả thành viên và bầu lại.
Một điểm nữa là CTD đã phát triển rất mạnh, tiềm lực tài chính rất lớn nhưng lại thiếu đầu tư, cụ thể ở đây là thiếu luật sư cố vấn lâu dài. Điều này không phải đợi xảy ra chuyện mới làm. Một DN kinh doanh bài bản phải có tổ luật sư cố vấn, để khi xảy ra những trường hợp như vậy xử lý ra sao, phòng ngừa bị thâu tóm như thế nào...
Ngân sách cho vấn đề này không lớn so với việc xảy ra biến động khiến giá cổ phiếu CTD đi xuống, giá trị vốn hóa giảm mạnh. Đáng nói hơn, từ phản ứng của ông Nguyễn Sỹ Công, các cổ đông nhỏ đọc giải trình không thấy thỏa mãn, thay vào đó chỉ thấy 2 nhóm cổ đông này xung đột kéo dài, cách tốt nhất là họ bán, rút ra khỏi công ty, hơn là nhờ cổ đông sáng lập bảo vệ cho họ.
Hiểu luật chơi để ra biển lớn
Việc đầu tư vào công ty không chỉ vì công ty đó tốt hay xấu, mà do NĐT tin tưởng người sáng lập, người điều hành. Nhưng người điều hành thể hiện nhiều hoạt động không chính danh sẽ khó được ủng hộ.
Những câu chuyện đã xảy ra trong thời gian qua có thể xem là bài học kinh nghiệm cho DN Việt Nam trong thời điểm hiện nay và cả tương lai. Vấn đề quản trị DN là cai quản công ty, bao gồm cơ cấu cổ đông, lợi ích của cổ đông phải được nằm trong điều lệ.
Tổng giám đốc của CTD đòi sửa điều lệ, nhưng không hiểu rằng điều lệ của các công ty được thiết lập để không có bất kỳ nhóm cổ đông nhỏ nào có quyền tùy tiện chỉnh sửa. Trong điều lệ của công ty, trách nhiệm HĐQT là điều bất di bất dịch.
Vì vậy, vấn đề đầu tiên phải quan tâm là quản trị điều hành công ty phải đi từ những quy định, những điều lệ hoạt động, từ chức năng nhiệm vụ của một số vị trí, từ quyền lợi của một số cổ đông chiến lược. Nếu cổ đông chiến lược đối vốn nhưng không được đối nhân cũng phải thỏa thuận.
Khi cổ phần hóa, tìm đối tác, DN Việt Nam chỉ chú trọng tiền và giá, mà quên đi những thỏa thuận khác. Đây là vấn đề cần có sự thống nhất ngay từ lúc đầu, không thể làm qua loa, đơn giản.
Những cổ đông đứng ra ký kết hợp đồng cũng phải có trách nhiệm. Vì khi DN bán cổ phần cho đối tác chiến lược không đơn giản là tổng giám đốc đứng ra ký kết, còn có những thỏa thuận dù cổ đông sau này là ai cũng phải tuân thủ. Kinh nghiệm này rút ra để các DN tiến hành tìm kiếm đối tác, đặc biệt trong thời gian này và xa hơn nữa thị trường trở nên chuyên nghiệp.
Các thương vụ thâu tóm thù địch như trường hợp CTD, sau đó giá trị công ty sẽ sụt giảm, lợi nhuận kinh doanh cũng sụt giảm vì cổ đông lớn đã thay thế người đứng đầu sẽ rút hết tài sản của công ty ra. Vì họ cũng lo lợi ích cho họ, không phải cho tất cả cổ đông của CTD. Tức cổ đông nhỏ thường không được bảo vệ.
Trong khi đó, nếu làm tốt IR sẽ quyết định các cổ đông nhỏ ủng hộ nhóm cổ đông cũ hay mới, hoặc đứng ngoài cuộc. IR tạo niềm tin cho người nắm giữ, hạn chế bán ra. Bởi vì không loại trừ trường hợp nhóm cổ đông muốn lật kèo thâu tóm công ty sẽ có động tác để tạo giá vốn giảm trong thương vụ này.
Nhà thầu Ricons tăng trưởng nhờ chiến lược nhắm tới phân khúc thị trường riêng Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Ricons, ngay từ ban đầu đã lựa chọn phân khúc thị trường phù hợp với năng lực của mình, tiếp cận các dự án có giá trị hợp đồng thầu vừa và nhỏ, tích lũy tài chính và kinh nghiệm dần dần phát triển lên vị trí nhà thầu thứ 3 trong bảng xếp hạng...