Bản Dọi – vẻ đẹp hoang sơ
Từ thị trấn Nông trường Mộc Châu (Sơn La) đi theo con đường dẫn về xã Tân Lập khoảng 20km đến ngã ba Pa Khen rồi rẽ phải đi thêm chừng 7km nữa là đến bản Dọi – bản của người dân tộc Thái sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng chè và chăn nuôi bò sữa.
Đường vào bản ngập trong sắc vàng hoa cải
Ai đó đã từng đến cao nguyên Mộc Châu, tận hưởng không khí mát lành, cảnh đẹp tự nhiên và khám phá những điều khác lạ, hấp dẫn của cộng đồng vùng cao Tây Bắc thì ở bản Dọi, vẻ đẹp và những nét hấp dẫn ấy dường như vẫn còn nguyên vẹn. i qua những đồi chè bạt ngàn, rừng mận kéo dài đến tận chân núi và những con đèo quanh co uốn khúc để đến nơi đây mới thực sự thấy và hiểu vì sao bản Dọi lại được nhiều người quan tâm đến thế.
Đến với bản Dọi, du khách có dịp cùng với người dân địa phương vào bếp làm quen và học nấu những món ăn truyền thống của người dân tộc Thái. Khi các món ăn đã được bày lên mâm, chủ khách cùng vui vẻ thưởng thức. Nếu khách muốn, dân bản cũng chẳng ngại ngần gì mà không mời khách đi cùng mình vào rừng tìm lá thuốc, ra đồi hái chè, xuống suối bắt cá, ra bìa rừng hái cỏ cho bò. Rồi cũng cùng khách leo qua 3 con dốc để đến với những bản người Mường, người Dao phía bên hông núi.
Video đang HOT
Đến bản Dọi, du khách và những người đam mê khám phá còn có cơ hội tìm hiểu về phong tục địa phương tại hang động mộ táng, mộ treo, mộ thuyền Trung Xá, Phây Đón để biết thêm về lịch sử, văn hóa cộng đồng của cư dân vùng đất này.
Những nóc nhà bình yên nơi bản Dọi
Theo như người già kể lại: Người Xá (dân tộc Khơ Mú ngày nay) và người Thái cùng ở trên mảnh đất Mộc Châu. Người Xá bắn tên rất giỏi đã thách người Thái bắn tên lên vách đá để xác định chủ quyền vùng đất. Nếu mũi tên của bên nào bắn cắm vào vách đá nghĩa là thần núi, thần đất thuận cho ở, còn bên nào thua phải đi khỏi mảnh đất này. Người Xá dùng tên có bịt đồng ở đầu mũi tên nên bắn vào vách đá thì bị nảy ra, còn người Thái đã lấy sáp ong dính vào đầu mũi tên nên khi bắn mũi tên đã dính lên vách đá. Từ đó, người Thái được làm chủ đất này. Vì không phải là chủ đất nên khi chết đi, người Xá không được chôn cất dưới đất mà phải lấy thân gỗ to, khoét bỏ ruột để cho người chết vào trong rồi treo lên các vách đá hoặc giấu trong các hang động quanh vùng.
Lịch sử mộ thuyền trong hang động ở đây đã tồn tại mấy trăm năm cùng với sự hiện diện của cộng đồng người Thái. Những quan tài đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn để cho du khách có thể ghé thăm, tìm hiểu thêm về lịch sử vùng đất tươi đẹp Tây Bắc này.
Theo ANTD
Tìm vết "Bánh xe khổng lồ"
Có ai từng lên biên giới mà không xao xuyến với những bóng thướt tha của người con gái Thái gánh đôi bương nước qua cây cầu tre lắt lẻo. Có ai từng lên biên giới mà khi trở về lại không có những giây phút lắng mình nhớ về những bánh xe quay bên dòng nước, quay suốt một đời mà không để lại vết cho ai!
Ai có dịp ghé qua vùng biên giới phía Bắc, nơi có những bản làng người Thái, Mường, Tày, Nùng, Dao... Từ Thanh Hóa, Hòa Bình cho đến Cao Bằng, Lạng Sơn, đi cho hết một vòng cung biên giới, chắc hẳn sẽ được thấy rất nhiều những cọn nước quay bên bờ sông, bờ suối. Những cọn nước ấy cứ mãi xoay cùng nhịp sống của những con người nơi miền biên viễn điểm tô cho bức tranh thiên nhiên, bình dị, chan hòa.
Cọn nước, cón nước, coóng nước hay guồng nước là những cách gọi khác nhau cho chiếc bánh xe quay khổng lồ được làm từ mây, tre đặc biệt này. Những năm về trước, cọn nước còn được người dân ở đồng bằng, thậm chí ở khu vực đồng bằng Trung, Nam bộ dùng để đưa nước về đồng ruộng. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, cọn nước chỉ còn ở vùng biên giới phía Bắc, nơi có những bản làng với nếp nhà sàn nghiêng soi bên suối.
Ở Việt Nam, cọn nước đầu tiên xuất hiện ở các cộng đồng người Thái, Mường. Sau đó có thêm các dân tộc khác học cách làm cọn nước phục vụ cho công việc thủy lợi. Người Thái và người Mường khi ở đâu việc đầu tiên là chọn những địa thế có thung lũng rộng "chính là các mường", xung quanh là núi tiện cho việc canh tác lớn, và dẫn nước từ núi về bản và từ suối vào ruộng. Để làm cọn nước, đầu tiên người ta dựng cái trục quay trên một giá đỡ bằng chạc cây và đặt vào đó một nửa khoanh vầu tròn. Người ta dùng thân tre hoặc vầu kết hai vòng lớn làm đường kính bánh xe, và những nan nối chéo từ trục sang hai vòng bánh như nan hoa xe đạp. Nơi tiếp giáp của các nan hoa bên trong guồng, người ta cài tiếp hai vòng hai bên điểm tiếp giáp để lực giữ được khỏe. Đầu cọn sẽ cài những quạt đan để nước đập vào đó và kề luôn đó là những ống bương múc nước. Một vài chi tiết khác được gia cố ở trục, điểm kết nan hoa. Tất cả cọn nước được buộc bằng một loại dây mây rừng rất bền và dẻo.
Tôi đã từng lên biên giới. Đã có những buổi chiều bên dòng suối mát. Vài thiếu nữ hết buổi lên nương giặt giũ, rửa chân bên suối. Những đứa trẻ bắt cá, nô đùa tắm mát. Những người già ra suối lấy gạo về chuẩn bị bữa cơm chiều. Bảng lảng khói sương. Tất cả hiện lên bình dị lung linh bên những "bánh xe khổng lồ" với vòng xoay không dấu vết. Chỉ có những vết tình nhung nhớ để lại trong lòng lữ khách là không thể nào quên.
Vũ Thanh
Theo ANTD
Những "bánh xe nước" độc đáo Những guồng nước như những bánh xe khổng lồ chậm rãi quay đều bên dòng suối đã trở thành nét đặc trưng của nhiều vùng miền. Được thiết kế rất khéo léo từ những vật liệu của núi rừng, những chiếc guồng nước thể hiện khả năng sáng tạo tuyệt vời của đồng bào miền núi trong công cuộc chinh phục thiên nhiên....