Bài học từ việc Việt Nam “chọn bạn” cực đoan
“Bài học thực tế là có thể chọn bạn, nhưng không “nhất biên đảo” một cách cực đoan. Thậm chí có thể chọn bên trong một cuộc chơi “thăng bằng” một cách có ý thức, thăng bằng nhưng có thể lệch pha. Ngày nay dễ làm điều này hơn hồi ấy.”
LTS: Lịch sử Việt Nam qua 70 năm hình thành và phát triển, từ một nước thuộc địa nhỏ bé ở Đông Nam Á chưa ai biết tới, nay đã có quan hệ với toàn bộ các nước trong Liên Hiệp Quốc, và đặc biệt có quan hệ đối tác chiến lược, hoặc đối tác toàn diện, với 5 nước lớn trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đó là kết quả của nền ngoại giao Hồ Chí Minh, mà trong giai đoạn đầu (1945-1946) Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng 8, Quốc khánh 2/9 và cũng là bảy thập kỷ Ngoại giao Việt Nam, Tuần Việt Nam phỏng vấn Đại sứ Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường, hiện là Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế, xung quanh những vấn đề ngoại giao của Việt Nam.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường
Có lúc “nhất biên đảo” cực đoan
Thưa ông, nhìn lại cả một quá trình thì Ngoại giao Việt Nam qua 70 năm hình thành và phát triển có thể chia làm mấy giai đoạn?
Nếu phân tích theo lối cổ điển, có thể chia lịch sử ngoại giao Việt Nam 70 năm qua theo 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1945-1946: Ngoại giao góp phần bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng. Ngoại giao Hồ Chí Minh phát huy cao độ sức mạnh của một dân tộc vừa được giải phóng khỏi ách đô hộ thực dân và phong kiến, cũng như sự khôn khéo sách lược và nghệ thuật ngoại giao, làm cho chính quyền non trẻ tồn tại giữa 5 thế lực nước lớn và 30 vạn quân đội nước ngoài. Giai đoạn này đem lại những bài học kinh điển về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, chuyển hướng chủ trương mau lẹ, lúc lùi, lúc tiến, hóa giải xung đột cục bộ, làm cho “đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự”, gõ các cánh cửa hòa bình, làm cho đối phương chập chững, tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng cách mạng cho cuộc kháng chiến chống xâm lược không thể tránh khỏi.
Giai đoạn 1947-1954: Đấu tranh chống thực dân Pháp trở lại xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc và khẳng định các quyền cơ bản của Việt Nam – những điều này Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 nêu ra nhưng chưa được quốc tế công nhận. Hai đại sự: mở cánh cửa ngoại giao với Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, từ đó ra thế giới, tác động vào phong trào phản chiến ở Pháp, đàm phán, ký kết Hiệp định Geneva 1954 về chấm dứt chiến tranh Đông Dương. Làm cho các nước lớn trên thế giới công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam.
Hòa bình lập lại năm 1954, tranh thủ viện trợ và giúp đỡ quốc tế xây dựng kinh tế miền Bắc. Từ 1964 đến 1975, Việt Nam bước vào cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, chống đế quốc Mỹ xâm lược, ngoại giao góp phần tập hợp lực lượng quốc tế ủng hộ Việt Nam, hình thành một trong ba mặt trận (chính trị, quân sự, ngoại giao).
Đàm phán Paris là một thành tựu quan trọng bậc nhất của ngoại giao Việt Nam. Ngoài sự khôn khéo và kiên định, các nhà đàm phán Việt Nam đã làm được công việc phi thường, đó là chuyển biến thắng lợi quân sự, chính trị, phong trào thế giới ủng hộ Việt Nam và phản chiến ở Mỹ thành kết quả trên bàn đàm phán.
“Hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ giữa các nước lớn và trong sự dính líu trực tiếp của tất cả các nước lớn ở bán đảo Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng việc xử lý quan hệ với các nước lớn. Người nhận ra rằng, để đương đầu với các nước lớn hơn ta về nhiều mặt, ngoại giao đóng một vai trò rất quan trọng.
Video đang HOT
Trong quan hệ với các nước lớn, Người chủ trương phải hiểu được các nước lớn, dù là đồng minh hay đối thủ, biết được mối quan tâm và chiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất và vận hành nội trị và ngoại giao từng nước lớn, quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa các nước lớn cùng những giới hạn của các mối quan hệ đó. Chỉ khi “biết người” như vậy thì ngoại giao Việt Nam mới có thể độc lập tự chủ, nhưng vẫn mềm dẻo linh hoạt, mới có thể thực hiện những nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương…” – Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã viết như vậy về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kỷ niệm 125 sinh nhật Người.
“Hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ giữa các nước lớn và trong sự dính líu trực tiếp của tất cả các nước lớn ở bán đảo Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng việc xử lý quan hệ với các nước lớn. Người nhận ra rằng, để đương đầu với các nước lớn hơn ta về nhiều mặt, ngoại giao đóng một vai trò rất quan trọng.
Trong quan hệ với các nước lớn, Người chủ trương phải hiểu được các nước lớn, dù là đồng minh hay đối thủ, biết được mối quan tâm và chiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất và vận hành nội trị và ngoại giao từng nước lớn, quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa các nước lớn cùng những giới hạn của các mối quan hệ đó. Chỉ khi “biết người” như vậy thì ngoại giao Việt Nam mới có thể độc lập tự chủ, nhưng vẫn mềm dẻo linh hoạt, mới có thể thực hiện những nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương…” – Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã viết như vậy về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kỷ niệm 125 sinh nhật Người.
Hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, ta đã có phần say sưa với chiến thắng, chậm nhận thức những chuyển biến vô cùng phức tạp trong chính trị nước lớn, cuộc cạnh tranh chiến lược của tam giác Mỹ-Xô-Trung, và âm mưu thâm độc của tập đoàn Pol Pot – Khơme Đỏ được thế lực nước lớn ủng hộ gây ra xung đột biên giới tây-nam.
Không phải ta không thấy, nhưng không thấy hết sự phức tạp của tình hình, nên đã thực hiện “nhất biên đảo” (ngả theo một bên – PV) một cách cực đoan. Về tổng thể đã bị các thế lực đối địch dùng đủ các loại xung đột để kiềm chế ta, làm cho ta không phát huy được đà thắng lợi của các sự kiện đỉnh cao năm 1973 và 1975. Từ chủ động chiến lược rơi vào thế bị động chiến lược.
Sẽ có không ít ý kiến bàn luận về vấn đề ấy của các năm 1975-1979, nhưng phải đánh giá tình hình từ bản thân lịch sử, từ hiệu quả và hậu quả của chủ trương đối ngoại để rút ra các bài học cho hiện tại và tương lai. Thực tiễn kiểm tra chân lý. Bài học thực tế là có thể chọn bạn, nhưng không “nhất biên đảo” một cách cực đoan. Thậm chí có thể chọn bên trong một cuộc chơi “thăng bằng” một cách có ý thức, thăng bằng nhưng có thể lệch pha. Ngày nay dễ làm điều này hơn hồi ấy.
Từ năm 1986 đến nay là giai đoạn ngoại giao phục vụ hòa bình xây dựng đất nước, phục vụ đổi mới và hội nhập quốc tế. Từ năm 1995 là một giai đoạn quan trọng; từ năm 2011 ta đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả. Bên cạnh đó, việc hình thành tư duy và nhận thức mới về tình hình thế giới và đường lối chính sách đối ngoại là thành tựu hết sức quan trọng.
Từng giai đoạn đó có những đặc điểm gì, thưa ông?
Ngoại giao Việt Nam trong 70 năm qua góp phần thực hiện bốn nhiệm vụ lớn:
Giai đoạn 1945-1946: Bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng. Hồi đó đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp lãnh đạo Bộ ngoại giao.
Giai đoạn 1947-1975: Phục vụ cho đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đàm phán ký kết các thỏa thuận chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình 1954, 1973 và Hiệp định Paris về Campuchia năm 1991.
Phục vụ đắc lực nhiệm vụ hòa bình xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào việc đổi mới tư duy nhận thức về thế giới và tư duy đối ngoại.
Sau gần 5 năm đàm phán, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam đã được ký kết ngày 27/1/1973. (Ảnh tư liệu/ Dangcongsan.vn)
Lỡ bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ cuối những năm 1970
Trước giai đoạn Campuchia là mấy năm sau hòa bình lập lại trên đất nước Việt Nam. Trong giai đoạn này ngoại giao Việt Nam đã thất bại trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Nhiều ý kiến cho rằng vì Việt Nam quá cứng nhắc trong việc đòi hỏi bồi thường chiến tranh từ phía Mỹ 3,25 tỷ đô la, do Tổng thống Nixon đã hứa trong bức công hàm gửi cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi ký hiệp định Paris, và đến khi Việt Nam chịu từ bỏ điều kiện này (giữa năm 1978) thì Mỹ không còn quan tâm đến Việt Nam nữa, và Việt Nam đã phải ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên Xô, và, theo nhiều người, đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc Trung Quốc tấn công Việt Nam đầu năm 1979. Ông nghĩ sao về chuyện này?
Hồi đó thế giới chia làm hai cực, hai phe. Bối cảnh quốc tế ấy chi phối và ràng buộc chính trị thế giới cũng như chính sách đối nội, đối ngoại của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, nếu nắm được bản chất sự việc, có chiến lược đúng đắn và sách lược khôn khéo thì vẫn có thể tránh được xung đột và chiến tranh.
Năm 1977, chính quyền Carter ở Mỹ chủ động thăm dò bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Nhưng về phía Mỹ, quan hệ với Việt Nam không cấp thiết, không phải là vấn đề ưu tiên. Cơ hội chỉ diễn ra trong năm 1977. Khi xung đột biên giới Tây-Nam nổ ra và Đặng Tiểu Bình đi Mỹ hô sẵn sàng lập “NATO phương Đông”, thúc đẩy liên kết với Mỹ ngăn chặn Liên Xô mở rộng ảnh hưởng ra châu phi, Mỹ Latinh và châu Á dưới khẩu hiệu chống “đại bá toàn cầu”, chống “tiểu bá khu vực”, cơ hội đã không còn.
Mặt khác, ta vừa ra khỏi chiến tranh, còn nặng cơn “hội chứng Mỹ”, Mỹ càng nặng cơn “hội chứng Việt Nam”. Không dễ thay đổi nhận thức để một bước chuyển hóa từ quan hệ nặng tính thù địch trong chiến tranh sang bình thường hóa quan hệ. Nhưng căn bản, Trung Quốc đã chủ động thúc đẩy bàn cờ chính trị châu Á, lợi dụng vấn đề Campuchia để tập hợp lực lượng, bao vây cô lập Việt Nam. Ta “nhất biên đảo” với Liên Xô, thì cũng gặp khó khăn theo, khi nước lớn này sa lầy chiến lược trong các cuộc chiến tranh cục bộ, lại bị lôi kéo vào cuộc chạy đua vũ trang, bị kiệt quệ và “chảy máu”, mà hậu quả thì sau này ta đã biết.
Khi Liên Xô không thể cáng đáng các cuộc xung đột cục bộ ở các khu vực và cuộc chiến tranh trực tiếp Afghanistan, phải “buông” các đồng minh, ta gặp khó khăn, nhưng kịp thời chuyển hướng chiến lược. “Cùng tắc biến, biến tắc loạn, loạn tắc thông”. Sự tan rã của thế giới lưỡng cực tạo ra môi trường quốc tế đa dạng hóa. Chúng ta đã kịp thời nắm lấy quyền chủ động chiến lược và làm nên lịch sử, mở ra thời kỳ đổi mới, cải cách, hội nhập quốc tế.
(Còn tiếp)
Theo Hoàng Ngọc
Vietnamnet
(Xem tiếp Phần 2, Ngoại giao Việt Nam chuyển biến từ “ý thức hệ” sang “lợi ích” ra sao, những vấn đề gì đặt ra với Việt Nam trong hiện tại và tương lai).
Chỉ có ngoại giao thông minh mới hóa giải xung đột
Việt Nam không đủ tiền mua nhiều tàu ngầm, tên lửa, nhưng nếu có nhiều thì cũng không đẩy lùi được nguy cơ. Chỉ có ngoại giao thông minh mới giúp thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Nhiều quan chức, cán bộ kỳ cựu góp ý kiến tại hội thảo về 70 năm ngành ngoại giao Việt Nam. (Ảnh: Trúc Quỳnh).
Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Khoa học Công nghệ (Bộ Công an), nói như vậy về vai trò của ngành ngoại giao trong bảo vệ Tổ quốc tại Hội thảo "70 năm ngoại giao vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" do Bộ Ngoại giao tổ chức sáng 12/8 tại Hà Nội.
Trao đổi với báo giới bên lề hội thảo về những thách thức mà Việt Nam nói chung và ngành ngoại giao nói riêng đang phải đối mặt, ông Cương cho rằng, việc mua vũ khí cũng quan trọng, nhưng không quan trọng bằng nghiên cứu để có đối sách ngoại giao đúng đắn. Theo ông, Việt Nam đã xác định lợi ích quốc gia mới là trên hết. Thiếu tướng Cương cho rằng, Việt Nam nên đặc biệt quan tâm ổn định, phát triển quan hệ với Trung Quốc, thúc đẩy quan hệ với Mỹ... Theo ông, thúc đẩy quan hệ với Mỹ cũng là phát triển quan hệ với Nhật Bản, với Liên minh châu Âu...
Phát biểu tại hội thảo, ông Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Thế giới, cho rằng, chính bước chuyển tư duy từ việc xem Mỹ từ kẻ thù chuyển thành đối tác đã giúp Việt Nam thoát được bao vây cấm vận, dẫn đến hàng loạt thay đổi sau này. Ông Lược cho rằng, nếu Việt Nam lệch lạc trong xử lý mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc thì sẽ gặp vấn đề, từ đó ảnh hưởng cả đối nội. "Tôi nghĩ chúng ta đứng giữa hai cường quốc thì chỉ có hai cách: nghiêng hẳn về một phía hoặc cân bằng. Chủ trương của chúng ta là cân bằng", ông Lược nói.
Đổi mới cần theo kịp hội nhập
Về những thách thức khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, ông Lược cho rằng, một trong những vấn đề lớn nhất hiện nay là Việt Nam đã ký đến 15 hiệp định tự do thương mại (FTA) và đang đàm phán 8 FTA, sắp tới có thể tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ông cho rằng, có lẽ Việt Nam là một trong những nước ký kết FTA nhiều nhất, nhưng đổi mới bên trong lại không theo kịp.
Ký kết các FTA, Việt Nam phải bỏ các hàng rào phi thuế quan và giảm hàng rào thuế quan xuống dần dần bằng 0. Nghĩa là hàng rào bảo hộ sẽ không còn nữa, và nền kinh tế Việt Nam phải cạnh tranh với các nền kinh tế mà Việt Nam ký FTA. Ông Lược cho rằng, đây không chỉ là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà còn có cạnh tranh giữa các chính phủ, giữa các thể chế, trong khi thể chế của Việt Nam còn nhiều bất cập, đổi mới chậm.
"Vừa rồi chúng ta đổi mới thủ tục hải quan, giảm thủ tục hành chính, nhưng những điểm đó chưa phải cơ bản, mà cơ chế xin-cho ở nước ta còn rất nặng nề. Do vậy, tôi cho rằng, chúng ta ký rất nhiều FTA, nhưng đổi mới trong nước chậm. Mà đổi mới chậm như vậy, chúng ta phải dè chừng sẽ thua thiệt", ông Lược nói.
Ông Lược nói rằng, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng nên chú trọng ngoại giao công nghệ để cải thiện nền kinh tế thiếu tính sáng tạo. Theo ông, Việt Nam đang nhập rất nhiều loại hàng hóa, nhưng chưa nhập bằng phát minh, sáng chế, trong khi Nhật Bản, Trung Quốc mỗi năm chi hàng tỷ đô la Mỹ nhập bằng phát minh, sáng chế.
Kiên quyết bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
Phát biểu tại hội thảo, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nói rằng, sau 30 năm Đổi mới, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng khó lường, Việt Nam tiếp tục phải giải quyết nhiều vấn đề quan trọng và phức tạp về đối ngoại. Nhiệm vụ "giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới" đặt các thế hệ cán bộ ngoại giao hôm nay trước những yêu cầu mới. Những định hướng trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng về hội nhập quốc tế, đưa quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, Việt Nam tích cực chủ động trong hợp tác khu vực, nhất là trong ASEAN, và kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước cũng phải được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, hiệu quả hơn, với sự đồng thuận rộng lớn hơn trong thời gian tới, Phó Thủ tướng nói.
Theo Trúc Quỳnh
Tiền Phong
Anh sẽ duy trì hỗ trợ cho Việt Nam qua các tổ chức quốc tế Ngày 29/7, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tiếp Thủ tướng Anh David Cameron đang có chuyến thăm chính thức tại Việt Nam. Chủ tịch nước Trương Trương Tấn Sang tiếp Thủ tướng Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland David Cameron. (Ảnh: Nguyễn Khang/TTXVN) Đánh giá cao quan hệ hợp tác giữa hai nước trên các...