Bắc Giang: Chuyện 55 cây vàng và kỳ tích lão nông Đầm Lác
Giữa lúc các trang trại, nông hộ quay cuồng, tan tác trong “bão” dịch tả lợn châu Phi thì ở thôn Đầm Lác, xã Việt Ngọc ( huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang), ông Nguyễn Bá Hữu vẫn tự tin trụ vững, phát triển và xuất chuồng đàn lợn đều đều với doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm.
Giấu vợ bán trộm 55 cây vàng
Sau nhiều lần liên hệ, đặt lịch chúng tôi cũng đến được trang trại của vợ chồng ông Hữu, tuy nhiên, để vào được “biệt phủ lợn” này mọi người phải vượt qua nhiều vòng vệ sinh, sát trùng mất hàng chục phút đồng hồ.
Trang trại của ông Hữu nằm giữa bốn bề đồi núi, cây xanh, bên trong trang trại lúc nào cũng có hàng chục công nhân đang làm việc, phục vụ chăm sóc đàn lợn gần 5.000 con.
Ông Nguyễn Bá Hữu bên đàn lợn tại trang trại của gia đình. Ảnh: Hải Đăng
Vừa rót nước mời khách, lão nông có dáng người đậm, đen nhem nhẻm, giọng sang sảng kể về những kỳ tích mà vợ chồng ông đã gây dựng nên. Sau 15 năm hành nghề lái xe khắp trong Nam ngoài Bắc, năm 2005, ông Hữu theo một người bạn vào Bình Dương thăm thú và giải quyết công việc. Đúng lúc đó, ông Hữu được mọi người giới thiệu và đến thăm một trang trại chăn nuôi gia công lớn nhất, nhì tại đây.
Sẵn máu chăn nuôi trong người, ông Hữu xin ở lại hơn 10 ngày để chơi nhằm dụng ý tìm hiểu “học lỏm” công việc và kỹ thuật chăn nuôi. “Ngày nào cũng theo công nhân vào trại, tôi cố để ý ghi vào đầu các hành động, các góc cạnh thiết kế, công nghệ áp dụng tại trang trại… Càng tìm hiểu tôi càng ham mê, định bụng chuyến này về sẽ bỏ nghề xe để theo nghiệp nuôi lợn luôn” – ông Hữu nhớ lại.
Sau khi về quê, ông Hữu bàn với vợ và gia đình đầu tư vào chăn nuôi nhưng thay vì đồng ý, các thành viên trong gia đình ông lại ra sức ngăn cản và cho rằng ý tưởng của ông thật điên rồ.
Dù không nhận được sự đồng lòng nhưng ông Hữu vẫn quyết chí thực hiện mơ ước của mình. Sau khi giấu vợ bán trộm 55 cây vàng (vốn tích lũy được sau 15 năm lái xe), ông Hữu lặng lẽ xin đấu thầu và mua lại đất đầm lầy của hơn 100 hộ trong thôn. Về sau, ngày ngày, ông Hữu đưa thợ lên xây dựng trang trại, tối ngủ lại ở đầm lầy để trông nom.
“Ngày ấy, đầm lầy hoang vu không điện, đường… đi lại khó khăn, vất vả lắm. Có ngày mưa vào trại tôi bị trượt ngã gãy cả chân, nhưng nghĩ mình đã từng trải qua đời quân ngũ, vượt qua bao nhiêu hiểm nguy giờ thời bình lại đầu hàng thì xấu hổ nên lại cố gắng gượng dậy tiếp tục công việc” – ông Hữu kể.
Ngày đó, gia đình ông đang nuôi 12 con bò và cấy 2 mẫu ruộng, cộng với nhiều diện tích cây ăn quả. Ngày ngày thấy vợ vất vả, sớm hôm ngoài đồng chăm lúa, cắt cỏ chăm bò, nhiều lần ông ra mặt can ngăn, giải thích và muốn vợ mình bỏ việc nhưng đều thất bại.
Video đang HOT
Đúng thời gian đó, con gái ông hạ sinh cháu đầu lòng, vợ ông phải lên thành phố cả tuần để chăm sóc con. Biết “cơ hội” đã đến, ông Hữu cho người đến dọn hết vườn vải và bán hết bò, nhượng lại ruộng cấy cho người trong nhà để dành toàn tâm, toàn ý cho việc nuôi lợn.
“Bà nhà tôi nóng lắm, khi về phát hiện tôi lấy vàng đem bán, bà ấy cầm cả nắm tiền ném ra vườn” – ông Hữu chia sẻ.
Trước tình cảnh đó, ông Hữu càng nung nấu ý chí chăn nuôi hơn. Sau hơn 3 tháng xây dựng chuồng trại thành công, ông Hữu liên kết với công ty gia công thả lứa giống hơn 600 con vào nuôi để thử nghiệm. Cùng với đó, ông tiếp tục cập nhật các kiến thức ở trên mạng, sách, báo… để áp dụng vào chăn nuôi. Sau hơn 4 tháng thả nuôi, đàn lợn tại trang trại cho xuất chuồng với số lãi thu về hàng trăm triệu đồng.
Tiếp đà, các năm tiếp theo ông Hữu tiếp tục liên kết với đơn vị gia công và nhân đàn lợn riêng của gia đình lên hàng nghìn con. Càng đầu tư lớn, ông Hữu càng thắng to hơn, thu nhập của gia đình ông tăng lên liên tục đến giờ con số này đã đạt ngưỡng hàng chục tỷ đồng/năm.
Kỳ tích trong chăn nuôi
Trong lúc “bão” giá, đàn lợn vẫn ngốn 100% cám ăn thẳng với hàng nghìn tấn mỗi ngày. Trước nguy cơ đàn vật nuôi xơi mất sổ đỏ, gia sản, ông Hữu ngày đêm mất ngủ để suy nghĩ, nghiên cứu tìm ra giải pháp cứu mình.
“Cái khó ló cái khôn”, trong đêm tối cuối cùng ấy, ý tưởng sáng chế nồi cám siêu to đã ra đời.
Theo đó, ông Hữu đã sáng chế 6 chiếc nồi nấu cám lợn “siêu khủng” để tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên và khí biogas để nấu cám cho lợn. Cụ thể, chiếc nồi này được thiết kế theo hình chữ nhật. Đáy được làm bằng thép chất lượng cao, dầy 10mm, dài 2,7m, rộng 0,8m.
Mỗi mẻ cám, một chiếc nồi nấu được trên 3 tạ ngô (nghiền), 2 tạ gạo, 50kg cá, 5 gánh bèo công nghiệp). Thời gian nấu mỗi mẻ cám khoảng 6 – 8 tiếng. Từ đó, ông Hữu cho lợn ăn luân phiên 1 ngày sử dụng cám ăn thẳng, 1 ngày sử dụng cám tự nấu. Lợn lớn nhanh, da hồng và gần như không có bệnh. Điều đặc biệt, giá thành sản xuất 1kg lợn giảm từ 35.000 đồng xuống 32.000 đồng/kg.
Bên cạnh việc nâng quy mô đàn lợn, vợ chồng ông Hữu còn đầu tư tiền tỷ vào hệ thống xử lý môi trường trong chăn nuôi, đặc biệt là hệ thống xả thải.
Đầu tiên, ông xây một hệ thống mương dẫn phân, nước thải từ các khu chuồng nuôi xuống một bể lọc đặc biệt. Bể lọc này có thể tích 49m3, hình vuông (7×7x7), bên trong được chia làm 4 ngăn bằng tường gạch. Các ngăn thông nhau bằng một hệ thống lọc để tách, giữ lại chất thải rắn. Sau khi tách được phân, chất thải lỏng còn lại được chảy xuống bể biogas rộng khoảng 1 mẫu.
Khi chất thải từ bể biogas thoát ra, ông Hữu lại thiết kế một bể lớn gồm 6 ngăn sâu 2m, ở dưới là đá hộc lớn, ở trên thiết kế bằng đá nhỏ bằng đầu đũa. Cứ mỗi ngăn đầu, chất thải sẽ đi ra theo hình sin (trong toán học).
Để ngăn không cho phân lợn tại bể lọc phân huỷ thành khí gây ô nhiễm môi trường, ông Hữu xây một khu xử lý phân rộng khoảng 70m2 ngay kế bên. Khu xử lý phân này có nền cao, có hệ thống rãnh và lỗ thoát nước phía dưới và xung quanh nối với bể lọc. Cách vài ngày, ông Hữu sử dụng máy múc múc phân lên khu xử lý phân.
Toàn bộ nước lỏng tiếp tục chảy xuống phía dưới và xung quanh, sau đó đi theo các rãnh thoát nước trở lại bể chứa lọc. Nhiệm vụ còn lại của công nhân trong trang trại là đổ vôi và các chế phẩm để ủ phân, chờ phân khô thì đóng bao. Toàn bộ phân khô từ trang trại sản xuất ra đều được các trang trại trồng trọt thu gom toàn bộ với giá từ 7.000 – 10.000 đồng/bao.
Nhờ luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chăn nuôi, tạo công ăn việc làm cho nhiều người và làm lợi cho cộng đồng, ông Nguyễn Bá Hữu đã được địa phương và Trung ương, Thủ tướng Chính phủ tặng nhiều giấy khen, bằng khen.
Theo Danviet
Bắc Giang: Ẩn họa sông ngòi tràn lan loài cá da nhám, đen xì, có con to như bắp chân
Sau vấn nạn sử dụng kích điện, thuốc trừ sâu hủy hoại môi sinh khiến lượng cá tôm tự nhiên giảm hẳn, giờ ngư dân lại thêm mối lo khó tránh dẫn đến tình cảnh cất thuyền, treo lưới, gác cần câu vì loài cá dọn bể.
Mỗi ngày, vào lúc 8 giờ sáng và 4 giờ chiều, ông Dương Văn Cần ở làng Hạ, xã Cao Thượng (Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) lại chèo chiếc thuyền nhỏ đi dọc con ngòi thu rọ cua, nhấc bát quái kiếm tôm cá.
Mỗi lần thu lưới, người dân có thể bắt được hàng cân cá dọn bể.
Hơn 15 năm trước một phần của làng Hạ được quy hoạch thành làng thủy sản, những hộ dân như ông Cần rời làng ra trại, làm ao nuôi thả cá. Rìa làng nơi tiếp giáp với xã Việt Lập là con ngòi tiêu nước khá rộng và sâu nên nhiều tôm cua cá. Ông Cần làm thêm nghề thả rọ, đánh lưới.
Với hơn 1 mẫu ao, mỗi năm thu 2 lần cũng được vài chục triệu. Ngày đi hai lần thu và thả rọ được trên 1 kg cua, thời giá ban đầu từ 50 nghìn đồng/kg rồi tăng đến 100 nghìn đồng/kg, chưa kể tôm cá lặt vặt cũng tăng thêm thu nhập. Nhưng đó là chuyện của những năm trước, hơn một năm nay vẫn con ngòi này mà đánh rọ, thả lưới bát quái hầu như trống không.
Chúng tôi có mặt ở làng Hạ cùng ông Cần đi thu bát quái. Thu xong 2 dây ông Cần bơi thuyền vào bờ. Trong lưới lốc nhốc lũ cá đầu to da nhám đen sì và rất nhiều vây, ngạnh. Đó là cá dọn bể, hơn chục con trong một dây bát quái. Không rõ từ đâu nhưng hơn một năm nay trên con ngòi này toàn cá dọn bể. Chúng phá phách khiến các loại cá khác dạt đi hết. Nhiều và khỏe như cá rô phi cũng chả còn, cua giờ cũng ít đi. Lũ cá dọn bể mà ông Cần bắt được hằng ngày chỉ đem nấu cho lợn, chó ăn.
Theo các nhà nghiên cứu, cá dọn bể là loài ăn tạp. Nó không chỉ tranh thức ăn mà còn theo các loài cá khác hút nhớt. Có lẽ vì lý do này nên thời gian gần đây tại những con ngòi tự nhiên ở Tân Yên, các loài tôm cá thưa vắng dần.
Chung cảnh ngộ là anh Trần Văn Quang ở thôn Yên Ngoài, xã Cao Xá, chuyên kéo te đánh tôm cá trên sông Nhâm Ngao. Tháng 7 vừa rồi khi tôi ngỏ ý xin vài con về xem thử, nửa giờ sau anh Quang chuyển cho một bao tải đầy cá dọn bể.
Đổ ra có con to bằng bắp chân, dài tới 70 cm. "Ngòi giờ nhiều loại này lắm, chỗ đó em đánh có một lúc thôi đấy", anh Quang chia sẻ. Cũng chính vì nhiều loại cá này và tôm cá thì vắng dần nên mới đây anh Quang đã bỏ hẳn nghề chài lưới.
Còn với ông Nguyễn Công Luận, thôn Ngọc Sơn, xã Ngọc Thiện từng làm nghề tôm cá đã khá lâu cho biết: "Mấy năm nay cá dọn bể nhiều lắm, giờ mỗi buổi đi thu rọ, bát quái thường được từ 4- 5 kg cá này. Hôm nào mưa thì được hơn chục kg". Ác nỗi loại cá này không có bao nhiêu thịt nên thường ông Luận bắt về cho người hàng xóm ủ ngâm lấy phân bón cây.
Nhưng có lẽ khổ nhất là khi thả lưới dính cá dọn bể, chỉ vài lần là hỏng tay lưới. Ngọc Thiện là một trong những xã có diện tích ao hồ lớn nhất ở huyện Tân Yên, người dân ở đây giỏi nghề nuôi cá. Một số gia đình có diện tích nuôi cá dù đã cẩn thận trong việc chọn lựa giống không để lẫn tạp, lại thường xuyên kiểm tra bờ nhưng không hiểu sao khi thu hoạch vẫn có một số con cá dọn bể lọt vào, có con gần 1kg.
Cá dọn bể hay còn gọi là cá lau kính có nguồn gốc từ Nam Mỹ du nhập vào Việt Nam với mục đích làm vệ sinh bể cá. Ở trong bể, loại cá này khá hiền lành và hầu như không thấy lớn, con dài nhất chỉ 30 cm. Tuy nhiên không rõ bằng con đường nào, từ bể cá cảnh, cá dọn bể thoát ra ngoài môi trường tự nhiên.
Cá dọn bể.
Trong môi trường này, nó sinh sản nhanh và tăng trưởng về kích cỡ, trọng lượng. Theo các nhà nghiên cứu, loại cá này ăn tạp. Nó không chỉ tranh thức ăn mà còn theo các loài cá khác hút nhớt. Có lẽ vì lý do này nên thời gian gần đây tại những con ngòi tự nhiên ở Tân Yên, các loài tôm cá thưa vắng dần.
Chúng tôi đi dọc con ngòi ở làng Hạ thấy hai bờ san sát hàng ngàn cái hang lớn nhỏ do cá dọn bể đào không rõ sâu bao nhiêu. Bên các miệng hố đầy nước này là vô số con cá dọn bể con nên cũng không lạ khi trong bát quái của ngư dân có đủ kích cỡ cá dọn bể.
Mùa mưa đến, nước sông Thương ngập lên các xứ đồng ven sông, nước từ các con ngòi tự nhiên đổ ra sông, không biết đã có bao nhiêu con cá loại này theo nước ùa ra sông. Chưa thực nghiệm kiểm tra nên cũng chưa rõ liệu chân đê hữu Thương, tả Thương giờ đã có bao nhiêu hang hốc do loại cá này đào để cư ngụ, sinh sản.
Cá dọn bể thích ứng rộng, sinh sản nhanh, không mấy người chế biến sử dụng nên chả ai buồn bắt, chính điều này vô tình khiến loài cá ngoại lai thêm cơ hội tồn tại và phát triển, dần lấn át cá bản địa. Ngư dân là người bị ảnh hưởng đầu tiên nhưng chắc chắn đó không phải là đối tượng cuối cùng.
Theo Châu Giang (Báo Bắc Giang)
Bắc Giang: Khu xử lý rác ở xã NTM dừng khởi công vì bị dân phản đối Cho rằng bãi rác sẽ ảnh hưởng đến môi trường sống của các hộ dân và khu nghĩa trang xã Liên Sơn, nên người dân trong xã đã tập trung phản đối việc xây dựng công trình xử lý rác thải. Trước tình trạng trên, UBND xã Liên Sơn, huyện Tân Yên đã phải tạm dừng khởi công xây dựng khu xử lý...