Ba nguy cơ quân sự hóa Trung Quốc có thể thực hiện ở Biển Đông
Sự quyết liệt của Mỹ trong chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông có thể thúc đẩy Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo phi pháp ở khu vực này.
Hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo phi pháp của Trung Quốc khiến cộng đồng quốc tế lo ngại. Ảnh: CSIS
Sau khi Mỹ thực hiện chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải (FON), cho tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Lassen đi vào trong phạm vi 12 hải lý quanh đá Subi ở quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc bồi đắp thành đảo nhân tạo phi pháp, Bắc Kinh đã tỏ ra rất giận dữ và đe dọa sẽ “dùng mọi biện pháp” để đáp trả.
Theo Bonnie Glaser, cố vấn cấp cao về châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), trong tương lai Trung Quốc có thể sẽ quân sự hóa các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông theo ba hướng chủ yếu nhằm chống lại các chiến dịch FON mà hải quân Mỹ tuyên bố sẽ thực hiện ít nhất hai lần mỗi quý.
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ triển khai các phương tiện tình báo, giám sát, và trinh sát (ISR) tới các đảo nhân tạo mới được bồi đắp phi pháp ở khu vực Trường Sa của Việt Nam.
Ông Glaser cho rằng việc triển khai ISR giúp Trung Quốc tăng cường đáng kể khả năng nhận định tình huống trong khu vực, thu thập tin tức tình báo và các thông tin mục tiêu quan trọng khi cần. Việc bố trí trạm radar giám sát tầm xa trên đảo nhân tạo có thể giúp Trung Quốc phát hiện tàu và máy bay nước ngoài từ khoảng cách lên tới 320km.
Máy bay tuần tra Y-8X của hải quân Trung Quốc khi triển khai trên đường băng dài 3.000 m trên đá Chữ Thập sẽ có khả năng xác định vị trí và theo dõi các tàu và máy bay hoạt động trong bán kính lên tới 1.600 km. Các phương tiện ISR của Trung Quốc cũng có thể được sử dụng vào mục đích thu thập tin tức tình báo cũng như thu thập các thông tin mục tiêu quan trọng khác.
Thứ hai, Trung Quốc có thể triển khai các hệ thống tên lửa đất đối không (SAM) và các tên lửa hành trình chống hạm (ASCM) trên các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông, có thể đe dọa máy bay, tàu hải quân Mỹ và đồng minh trong khu vực cũng như các bên có tranh chấp chủ quyền khác.
Quân đội Trung Quốc đã nỗ lực rất nhiều trong 20 năm qua để tăng cường năng lực tên lửa của họ. Nước này đang biên chế với số lượng tên lửa đất đối không và tên lửa hành trình chống hạm cho các lực lượng lục quân, hải quân và không quân. Các tên lửa HQ-9 và S-300 PMU-1 có thể tiêu diệt máy bay ở khoảng cách 150-200 km, trong khi các tên lửa ASCM như YJ-62 và YJ-83 phóng từ mặt đất có thể khống chế phần lớn Biển Đông với tầm bắn 120 – 400 km tính từ các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp phi pháp.
Mối đe dọa từ các loại tên lửa này sẽ buộc các cường quốc khu vực như Nhật Bản và Australia phải cân nhắc kỹ về hoạt động của các tàu và máy bay trên Biển Đông, theo ông Glaser.
Thứ ba, Trung Quốc có thể sử dụng các đường băng và những cảng nước sâu để hỗ trợ cho các hoạt động của hải quân PLA và không quân (PLAAF) vươn ra ngoài Biển Đông.
Các đường băng và các cảng nước sâu trên đá Chữ Thập và đá Vành Khăn có thể đóng vai trò là các điểm tiếp tế và điều phối cho các tàu quân sự và chiến đấu cơ Trung Quốc, giúp chúng có tầm hoạt động xa hơn trên Biển Đông. Việc triển khai các máy bay có khả năng tiếp nhiên liệu trên không như tiêm kích J-11 giúp mở rộng phạm vi tuần tra của chiến đấu cơ Trung Quốc lên đáng kể, trong khi các máy bay ném bom chiến lược H-6K sẽ đặt các nước ở xa như Australia trong phạm vi không kích.
Về mặt logic, việc bố trí các vũ khí, khí tài hiện đại trên những hòn đảo bao quanh bởi nước mặn này sẽ gia tăng tỷ lệ hao mòn, hỏng hóc, gây tốn kém và gia tăng thách thức. Tuy nhiên, số vũ khí quân sự này cũng mang đến nhiều lợi ích rõ ràng mà Trung Quốc khó có thể phớt lờ, theo Diplomat.
Video đang HOT
Paul Giarra, chủ tịch Global Strategies & Transformation, công ty tư vấn quốc phòng và chiến lược của Mỹ, cho rằng việc quân sự hóa các đảo nhân tạo sẽ đem đến cho Trung Quốc các lợi thế cơ bản như củng cố yêu sách chủ quyền phi lý của nước này ở Biển Đông, tạo vị thế tác chiến trên biển, và mở rộng phạm vi chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD) mà Trung Quốc đang áp dụng.
Chiến đấu cơ J-11 của Trung Quốc hạ cánh trên một đường băng ở Biển Đông. Ảnh: 81.CN
Đối phó của Mỹ
Tham vọng tăng cường hiện diện quân sự của Trung Quốc trên Biển Đông buộc Mỹ phải cân nhắc các cách tiếp cận chiến lược mới, chủ yếu là vận dụng chiến lược Bù đắp lần thứ Ba (Third Offset), tận dụng các ưu thế về công nghệ quốc phòng nhằm giảm thiểu rủi ro do các vũ khí chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực của PLA gây ra, theo ông Malcolm Davis, phó giáo sư Viện quan hệ quốc tế, Đại học Bond, Australia.
Ông Malcolm cho rằng để đối phó với hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc, Mỹ cần sự hỗ trợ của các các đồng minh và đối tác chủ chốt trong khu vực như Australia, ASEAN, Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc nhằm khẳng định các nguyên tắc cơ bản như tự do hàng hải trên các vùng biển quốc tế.
Mỹ có thể tăng cường hợp tác quân sự với các nước trong khu vực, đặc biệt là Australia, đưa các lực lượng không quân, lục quân, hải quân tiếp cận nhiều hơn các căn cứ quân sự ở quốc gia này để có thể ứng phó kịp thời hơn với diễn biến tình hình.
Chuyên gia Giarra gợi ý rằng Mỹ và đồng minh “nên mở rộng các vị trí tác chiến vòng ngoài, triển khai các hỏa lực cần thiết ở đây và kết hợp với các yếu tố tâm lý và hợp pháp của chiến tranh hiện đại vào một chiến dịch hợp nhất”.
Theo Sean P. Quirk, chuyên gia hải quân tại Diễn đàn Thái Bình Dương thuộc CSIS, Mỹ có thể ngăn chặn Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông bằng con đường ngoại giao, trên các diễn đàn song phương và đa phương cũng như “tăng cường trao đổi quân sự Mỹ – Trung để nêu quan ngại về các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông”.
Quirk cho rằng Washington cần chỉ rõ cho Bắc Kinh thấy họ sẽ phải đối mặt với những hậu quả quốc tế, bao gồm sự lên án của Liên Hợp Quốc và có thể là các biện pháp trừng phạt, nếu họ có những động thái quân sự hóa các các vùng biển quốc tế.
Trong diễn biến mới nhất gần đây, Mỹ vừa mới xác nhận đã điều hai “pháo đài bay” B-52 bay gần các đảo nhân tạo phi pháp do Trung Quốc bồi đắp ở khu vực Trường Sa, động thái được giới phân tích cho là ẩn chứa thông điệp răn đe mạnh mẽ của Washington đối với Bắc Kinh.
Duy Sơn
Theo VNE
Pháo đài bay B-52, vũ khí Mỹ răn đe Trung Quốc trên Biển Đông
Sự hiện diện của B-52 trên Biển Đông được coi là biện pháp răn đe hiệu quả của Mỹ, đồng thời trấn an các đồng minh về cam kết bảo vệ tự do hàng hải.
Một Pháo đài bay B-52 của Mỹ bay tuần tra trên biển. Ảnh: USAF
Ngày 12/11, các quan chức Mỹ xác nhận rằng hai chiếc máy bay ném bom chiến lược tầm xa B-52, được mệnh danh Pháo đài bay, đã bay qua gần các đảo nhân tạo phi pháp do Trung Quốc bồi đắp ở khu vực Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, và vẫn tiếp tục hành trình sau khi nhận tín hiệu liên lạc của kiểm soát viên không lưu Trung Quốc, theo Reuters.
Tuyên bố này được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc đang lên cao sau khi Lầu Năm Góc điều tàu khu trục tên lửa USS Lassen tuần tra trong phạm vi 12 hải lý quanh một đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp phi pháp. Hải quân Mỹ khẳng định họ sẽ tiếp tục thực hiện các chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải tương tự với tần suất ít nhất hai lần mỗi quý.
Tờ The Hill dẫn lời một quan chức Mỹ giấu tên cho biết hai chiếc B-52 này đã "bay qua" trong phạm vi 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo do Trung Quốc bồi đắp phi pháp, và khẳng định một trong hai chiếc oanh tạc cơ này đã thực hiện "chiến dịch tự do hàng hải". Lầu Năm Góc không xác nhận thông tin này, và nhiều tờ báo lớn của Mỹ cũng nói rằng hai chiếc B-52 chỉ bay gần chứ không đi vào khu vực 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo phi pháp.
Những tiết lộ này khiến dư luận quốc tế nhớ đến câu chuyện xảy ra vào tháng 11/2013, khi không quân Mỹ điều hai chiếc Pháo đài bay B-52 không có chiến đấu cơ hộ tống bay ngang qua biển Hoa Đông, nơi Trung Quốc vừa tuyên bố thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ). Việc Mỹ đưa hai chiếc B-52 không có lực lượng bảo vệ này bay qua ADIZ Trung Quốc vừa thiết lập mà không báo cáo được cho là hành động thách thức mạnh mẽ của Washington đối với tham vọng áp đặt quyền kiểm soát các vùng biển quốc tế của Bắc Kinh.
Theo giới phân tích, việc sử dụng B-52 để thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý mà Trung Quốc đưa ra là hành động mang tính biểu tượng của Mỹ, bởi chiếc Pháo đài bay là lá bài chiến lược thể hiện sức mạnh răn đe và uy thế của lực lượng không quân mạnh nhất thế giới, đồng thời là sự hiện thực hóa cam kết của Mỹ nhằm trấn an các đồng minh trong khu vực.
Hồi tháng 7, Mỹ cũng đã điều hai chiếc B-52 thực hiện một sứ mệnh mang tên "trấn an và răn đe bằng oanh tạc cơ" (BAAD) bay liên tục 44 giờ từ căn cứ không quân ở Louisiana tới Australia và thực hiện các cuộc tập trận ném bom với không quân Australia.
Máy bay ném bom chiến lược B-52 là một biểu tượng của sức mạnh và công nghệ quân sự Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Được chế tạo từ thập niên 1950, B-52 trở thành một trong những mũi nhọn răn đe hạt nhân của Mỹ, với khả năng thực hiện các cuộc tấn công hạt nhân tầm xa trong thời gian ngắn trên phạm vi toàn cầu.
Được trang bị tới 8 động cơ mạnh mẽ, B-52 có thể mang tới 32 tấn vũ khí, kể cả bom thông thường và bom hạt nhân, để thực hiện các nhiệm vụ tác chiến tầm xa có phạm vi lên tới 7.210 km. Từ năm 1955 đến nay, B-52 được sử dụng liên tục trong không quân Mỹ để thực hiện các sứ mệnh tuần tra, răn đe tầm xa và là một công cụ quan trọng để Mỹ phô diễn sự hiện diện quân sự của mình tại các khu vực chiến lược trên thế giới.
Khả năng vận hành ưu việt ở vận tốc cận âm cùng chi phí hoạt động tương đối thấp khiến B-52 tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong chiến lược tác chiến của không quân Mỹ, bất chấp sự ra đời của nhiều loại máy bay ném bom chiến lược hiện đại sau này như B-1 Lancer, B-2 Spirit. Khi kỷ niệm 60 năm hoạt động vào năm ngoái, B-52 vẫn nhận được sự quan tâm, đầu tư của không quân Mỹ với các gói nâng cấp quan trọng, giúp nó có thể tiếp tục hoạt động đến những năm 2040.
Theo các chuyên gia phân tích, sự hiện diện của B-52 Mỹ tại các điểm nóng như Biển Đông là một trong những biện pháp răn đe và phô diễn sức mạnh hiệu quả nhất, đồng thời phát đi một thông điệp chiến lược nhằm bảo vệ lợi ích của Mỹ.
"Những chuyến bay như thế này là một trong nhiều cách để Mỹ thể hiện cam kết đảm bảo hòa bình và ổn định ở khu vực Ấ - Á - Thái Bình Dương. Ngoài việc nâng cao kỹ năng và sự thông thuộc địa hình cho phi hành đoàn, nó còn giúp tăng cường khả năng ứng phó với bất cứ mối đe dọa tiềm tàng nào", Đô đốc hải quân Australia Cecil Haney phát biểu sau khi B-52 thực hiện chiến dịch BAAD ở nước này.
Răn đe âm mưu lập ADIZ
Oanh tạc cơ B-52 có thể mang theo tới 32 tấn vũ khí. Ảnh: Wikimedia
Chuyên gia phân tích Ankit Panda của tờ Diplomat cho rằng việc Mỹ công khai thông tin về chuyến bay B-52 gần đảo nhân tạo phi pháp ở Trường Sa là một động thái nhằm ngăn ngừa, răn đe khả năng Trung Quốc tuyên bố thiết lập ADIZ trên Biển Đông.
Từ lâu, các chuyên gia và quan chức quân sự Mỹ đã cảnh báo rằng trong tương lai, Trung Quốc có thể đẩy mạnh quân sự hóa các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông, hoàn thiện các đường băng và điều các chiến đấu cơ, vũ khí phòng không ra để thiết lập ADIZ trên vùng biển chiến lược này.
Mới đây, truyền thông Trung Quốc đăng tải những hình ảnh cho thấy chiến đấu cơ J-11 của Trung Quốc đã diễn tập trên đường băng được cho là nằm tại đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Các chuyên gia phân tích quân sự nhận định việc đưa J-11 xuống Hoàng Sa là tiền đề để Trung Quốc có thể mở rộng ảnh hưởng và hiện diện quân sự xuống xa hơn về phía nam Biển Đông.
Hồi tháng 10, một thẩm phán Philippines trong chuyến thăm đến Mỹ tuyên bố rằng Trung Quốc gần như đã thiết lập tình trạng "bán ADIZ" trên Biển Đông. "Trên thực tế, giờ đây họ gần như đã thi hành ADIZ phi chính thức ở khu vực quần đảo Trường Sa", thẩm phán Antonio Carpio cho biết.
Các quan chức Mỹ nói rằng khi B-52 bay tới gần đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp phi pháp ở Trường Sa, phi công của họ có nhận được tín hiệu liên lạc từ phía đài kiểm soát mặt đất của Trung Quốc, nhưng không hề nói rằng các kiểm soát viên không lưu này xua đuổi hay cảnh báo B-52, giống như những gì họ đã làm với chiếc máy bay trinh sát P-8A của Mỹ trước đây.
Khi B-52 Mỹ bay qua biển Hoa Đông hồi năm 2013, họ cũng không nhận được bất cứ tín hiệu cảnh báo từ mặt đất hay hành động ngăn chặn nào của chiến đấu cơ Trung Quốc. Theo giới phân tích, có vẻ như Trung Quốc vẫn chưa thể tìm ra cách đối phó hiệu quả với những chiếc pháo đài bay của Mỹ thực hiện những chiến dịch mang tính răn đe.
Ông Panda cho rằng, nếu như kiểm soát viên không lưu Trung Quốc liên lạc với phi công B-52 mà không đưa ra bất cứ lời cảnh báo hay xua đuổi nào, đây có thể chỉ là hành động liên lạc thông thường với máy bay quân sự nước ngoài để đảm bảo an toàn hàng không.
Gần đây Mỹ và Trung Quốc đã ký thỏa thuận thống nhất về quy tắc ứng xử giữa tàu chiến và máy bay quân sự hai nước khi chạm mặt. Theo những thông tin mà Lầu Năm Góc và các quan chức Mỹ đưa ra, những gì diễn ra với hai chiếc B-52 bay qua khu vực Trường Sa đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của các quy tắc ứng xử này.
"Với những chiếc B-52 này, chúng tôi sẽ trấn an các đồng minh trong khu vực rằng chúng tôi có thể xuất hiện và tác chiến bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, và chúng tôi muốn họ tiếp tục tận hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không mà chúng tôi ủng hộ", đại úy Jared Patterson, phụ trách vũ khí và chiến thuật của phi đội ném bom 96 Mỹ, phát biểu trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 7.
Trí Dũng
Theo VNE
Nhật, Indonesia lo ngại hoạt động bồi đắp phi pháp trên Biển Đông Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Chủ tịch quốc hội Indonesia Setya Novanto ngày 12.11 đã trao đổi quan điểm về hoạt động bồi đắp trái phép của Trung Quốc trên Biển Đông. Thủ tướng Shinzo Abe đã bày tỏ quan ngại đối với hành động của Trung Quốc bồi đắp đảo nhân tạo phi pháp trên Biển Đông - Ảnh: Reuters...