Ba nguy cơ kinh tế Việt Nam phải đối mặt
Ngân hàng HSBC đưa ra sự lo ngại khi chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế càng lớn, càng nhiều rủi ro đang chờ đón Việt Nam vì các yếu tố hỗ trợ kinh tế vĩ mô vẫn còn khá mỏng.
Ngân hàng HSBC vừa công bố báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam tháng 6/201. Theo báo cáo của HSBC, sau mức tăng trưởng kinh tế đáng thất vọng trong quý I/2016, nhiều dấu hiệu cho thấy tăng trưởng quý II sẽ cải thiện. Chỉ số PMI tháng 5 đạt mức cao nhất 10 tháng, lên 52,7 điểm. Kinh tế cải thiện nhờ số lượng đơn hàng mới gia tăng mạnh mẽ. Cả sản xuất công nghiệp lẫn xuất khẩu vẫn không ngừng tăng trưởng trong quý II.
Mặc dù đán.h giá hiện tượng El Nio tiếp tục làm hạn chế quá trình sản xuất nông nghiệp, nhưng HSBC vẫn kỳ vọng GDP quý II sẽ tăng và đạt 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Theo đó, ngân hàng này vẫn giữ nguyên dự báo GDP cả năm 2016 sẽ đạt mức 6,3%.
Tuy vậy, HSBC cũng đưa ra sự lo ngại khi chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế càng lớn, càng nhiều rủi ro đang chờ đón Việt Nam vì các yếu tố hỗ trợ kinh tế vĩ mô vẫn còn khá mỏng.
Những nguy cơ Việt Nam phải đối mặt bao gồm: 1) yếu tố hỗ trợ dự trữ ngoại hối thấp, 2) ngành ngân hàng vẫn đang phải vật lộn với hậu quả khủng hoảng tài chính trong nước năm 2011, và 3) lạm phát tuy nằm trong vòng kiểm soát nhưng vẫn tăng đều. Những yếu tố này, theo quan điểm của HSBC, dẫn đến yêu cầu cần có chính sách tài chính và tiề.n tệ cẩn trọng hơn.
HSBC dự báo thâm hụt ngân sách sẽ tăng đến 6,6% GDP trong năm 2016. Ảnh minh họa
Thâm hụt ngân sách sẽ tăng
HSBC dự báo thâm hụt ngân sách sẽ tăng đến 6,6% GDP trong năm 2016, nâng tỷ lệ nợ công trên GDP lên ngưỡng 64,5%.
“Thâm hụt ngân sách tăng là vấn đề do tỷ lệ nợ công của Việt Nam đã thực sự cao. HSBC ước tính nợ công Việt Nam (bao gồm nợ nước ngoài và trong nước đáng chú ý là của chính quyền trung ương và địa phương, cộng với bảo lãnh chính phủ) đã tăng từ 59,6% nằm 2014 lên 63,3% GDP vào cuối năm 2015″, HSBC cho biết.
Video đang HOT
Theo HSBC, vấn đề nợ ngày càng trầm trọng hơn do lạm phát chậm lại (ảnh hưởng đến GDP danh nghĩa) và đồng tiề.n Việt Nam mất giá (làm tăng giá trị nợ nước ngoài). HSBC kỳ vọng tỷ lệ nợ công trên GDP tăng lên 64,5% GDP trong năm 2016, đạt ngưỡng giới hạn của Quốc Hội đề ra 65%.
Các nhà đầu tư đang lo ngại về khả năng Nhà nước có thể tăng mục tiêu nợ công trên GDP lên 65%. Báo cáo mới nhất của Fitch5 đã nhấn mạnh, Chính phủ vẫn giữ nguyên mục tiêu trong Kế hoạch Phát triển Kinh tế- Xã hội 2016. Các nhà quản lý cũng đã nhấn mạnh các kế hoạch nhằm tránh vi phạm mục tiêu đề ra bằng cách giảm chi tiêu trong kỳ và hạn chế sử dụng bảo lãnh chính phủ.
HSBC đồng ý rằng việc bám sát trần nợ là rất quan trọng, vì chính điều này áp những quy định lên việc sử dụng ngân sách và giúp đảm bảo khu vực tư nhân không lấn áp những khu vực kinh tế khác. Tái phân bổ chi tiêu vào đầu tư hạ tầng cũng là vấn đề trọng yếu để gia tăng sức cạnh tranh và năng suất của Việt Nam.
Phân tích biểu đồ cho thấy chi tiêu trong kỳ liên tục gia tăng qua các năm dẫn đến đầu tư công suy giảm, đây là cơ sở chính yếu để nâng tiềm năng tăng trưởng lâu dài của Việt Nam. Điều quan trọng là tình trạng tài chính công của Việt Nam đã khá căng thẳng, đặc biệt khi so sánh với những đối thủ khác trong nhóm các thị trường mới nổi tại châu Á. Chi tiêu công gia tăng sẽ giúp đảm bảo mục tiêu tăng trưởng của chính phủ. Nhưng chi phí này sẽ làm tăng nguy cơ tài chính trong tương lai.
HSBC đưa ra giải pháp trong thời kỳ trung hạn, cải cách tài chính, chủ yếu tập trung vào những vấn đề:
Mở rộng cơ sở lợi nhuận: Các biện pháp hành chính nhằm hạn chế trốn thuế, công bố các trường hợp gian lận thuế, và đơn giản hóa quá trình hoàn thuế VAT có thể giúp thu hẹp khoảng cách do cắt giảm thuế trên nhiều lĩnh vực và giảm thuế quan gây ra.
Chi tiêu công hiệu quả hơn: Lương cơ bản cho toàn bộ nhân viên cần được điều chỉnh để tạo cơ hội cho đầu tư công và các biện pháp chi tiêu xã hội chính như là giáo dục. Việc điều chỉnh này cần được tiến hành sâu rộng hơn và các chính sách dịch vụ dân sự hiệu quả và toàn diện phải thay thế việc hạn chế tuyển dụng.
Điều chỉnh phương pháp kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế: Điều chỉnh kế toán tài chính phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế sẽ tạo điều kiện dễ dàng so sánh xuyên quốc gia. Truyền thông tài chính được cải thiện có thể giúp nâng cao nhận thức thị trường về nguy cơ và gia tăng trách nhiệm cùng khả năng quản lý. Tin vui là những cải cách này đang trong quá trình thực hiện: vào năm 2017, Việt Nam sẽ áp dụng chuẩn báo cáo tài chính mà theo đó chi phí đầu tư ngoài ngân sách sẽ được bổ sung vào ngân sách nhà nước.
“Tuy nhiên, những cải cách này không thể thực hiện một sớm một chiều. Hiện tại, chúng tôi nghĩ tăng trưởng tuy chậm nhưng bền vững là điều cần hướng đến”, báo cáo của HSBC nêu.
Đinh Bách
Theo_VnMedia
Nợ công: Khi sau lưng không còn đường lùi
Tính đến năm 2010 nợ công của Việt Nam mới chỉ dừng ở mốc 51,7% GDP thì đến năm 2014 đã tăng lên 60,3% và đạt mức gần 64% trong năm 2015.
Năm 2016 được đán.h giá là một năm bản lề với nền kinh tế Việt Nam khi kinh tế Việt Nam được kỳ vọng sẽ cất cánh trong bối cảnh mới với nhiều lực đẩy thuận lợi từ các hiệp định thương mại lớn.
Nhưng, đây cũng đồng thời là năm mà nhiều vấn đề cực kỳ quan trọng tích tụ lại trong nền kinh tế nhiều năm qua đến thời điểm bộc phát. Để giải quyết cơ bản những vấn đề này buộc nền kinh tế Việt Nam phải thay đổi tận gốc cơ chế vận hành trong suốt nhiều năm qua và phải tìm ra một cách thức vận hành mới, bởi năm 2016 sẽ là năm cuối cùng trước khi mức nợ công của Việt Nam vượt trần cho phép là 65% GDP.
Sự tích lũy nợ công chóng mặt những năm gần đây
Nếu như nhìn vào biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng và tích lũy nợ công của Việt Nam trong vài năm gần đây, hẳn tất cả chúng ta sẽ cảm thấy đáng ngại về mức độ tăng của nợ công quốc gia. Tính đến năm 2010 nợ công mới chỉ dừng ở mốc 51,7% GDP thì đến năm 2014 nó đã tăng lên 60,3% và đạt mức gần 64% trong năm 2015.
Điều này có nghĩa là trong giai đoạn từ 2010 đến 2014, trung bình mỗi năm tổng số nợ công tăng thêm 2% trên GDP và tăng vọt lên gần 4% trong năm 2015 - năm mà kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 5 năm qua là 6,7%. Nó cho thấy sự liên quan lớn giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức nợ công của chính phủ. Theo thống kê, kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ giai đoạn 2010-2015 là 335.000 tỉ đồng, gấp 2,5 lần giai đoạn 2006-2010.
Theo tính toán của chính phủ, mức nợ công của Việt Nam sẽ đạt đỉnh 64,9% vào năm 2016 trước khi chạm trần 65%, và bắt đầu giảm dần kể từ năm 2017. Nhưng thực tế là chúng ta đã chạm trần nợ công sớm khoảng 5 năm so với dự tính trước đây (theo dự tính phải đến năm 2020 thì mức nợ công của Việt Nam mới chạm giới hạn cho phép là 65% GDP).
Tính đến thời điểm hiện tại, không chỉ tốc độ tăng trưởng nợ công quốc gia mà cả nợ gốc lẫn lãi nợ phải trả đều rất đáng lo ngại. Theo báo cáo chính thức thì nợ gốc phải trả tính trên tổng thu ngân sách đến cuối năm 2015 là khoảng trên 16%, vẫn dưới ngưỡng quy định là 25%. Tuy nhiên, nếu tính tổng cộng tất cả các khoản vay mà chính phủ thực hiện rồi đem cho các địa phương và các chủ đầu tư dự án vay lại, thì tỉ lệ này đã vượt mốc quy định 25% từ lâu: Năm 2014 tỷ lệ này đã lên tới 25,92% và năm 2015 có thể lên tới 31,75% tổng thu ngân sách.
Dù về lý thuyết, các khoản chính phủ cho các địa phương và các chủ đầu tư dự án vay lại không được tính vào tổng nghĩa vụ trả nợ của chính phủ, và các địa phương và chủ đầu tư này sẽ phải tự thanh toán khoản nợ của mình, nhưng trên thực tế chỉ có 7% trong tổng số các khoản cho vay lại này là thực sự là thuộc loại "vay lại" và có lãi suất, còn lại vẫn được thực hiện theo cơ chế xin - cho. Cùng với đó, chính phủ sẽ vẫn là người có trách nhiệm đứng ra trả nợ do là người đứng tên khi thực hiện các khoản vay nước ngoài; điều này có nghĩa là nếu các địa phương và chủ đầu tư không thể hoàn trả các khoản nợ công và lãi nợ của mình thì chính phủ vẫn là người phải gánh tất cả những nghĩa vụ trả nợ đó.
Tính đến thời điểm hiện tại, các khoản trả nợ gốc và lãi nợ đang bào mòn ngân sách Việt Nam với tốc độ kinh khủng. Chỉ riêng khoản trả lãi nợ hàng năm tính đến thời điểm hiện tại đã lên tới 7,2% tổng chi ngân sách nhà nước, chưa kể các khoản trả nợ gốc mỗi năm. Điều này có nghĩa là mỗi năm Việt Nam đang mất đi trên 7% tổng chi ngân sách chỉ để trả lãi nợ thay vì có thể sử dụng để đầu tư. Với một quốc gia đang phát triển và cần vốn đầu tư lớn và liên tục, thì việc mất đi hơn 7% tổng chi ngân sách quốc gia mỗi năm chỉ để trả lãi nợ là con số quá lớn. Có thể nói, đây là hệ quả mà Việt Nam phải gánh chịu sau một thời gian dài liên tục đi vay ở quy mô lớn và sử dụng nguồn vốn vay một cách tràn lan, không hiệu quả.
Khi sau lưng không còn đường lùi
Mục tiêu mà chính phủ đặt ra là đến cuối năm 2016 mức nợ công sẽ đạt đỉnh ở mức 64,9% trước khi giảm xuống vào năm 2017. Thoạt nghe thì điều này có vẻ đơn giản nhưng thực tế đây là một mục tiêu rất khó thực hiện. Việc đặt ra mục tiêu tổng mức nợ công gia tăng trong cả năm 2016 chỉ thêm 0,9% (từ 64% năm 2015 lên 64,9% năm 2016) trong khi vẫn giữ mục tiêu tăng trưởng kinh tế tới 6,9% trong năm nay quả là một mục tiêu đầy thách thức. Nếu chúng ta nhớ lại rằng để đạt được tốc độ tăng trưởng 6,7% trong năm 2015 chúng ta đã phải vay mượn một khoản nợ công lên tới gần 4% GDP, thì việc chỉ vay 0,9% GDP mà có thể đạt mức tăng trưởng 6,9% trong năm 2016 quả là điều không tưởng.
Đó là chưa kể, thời gian 1 năm còn lại là quá ngắn để có thể kịp hãm phanh con ngựa nợ công vốn càng lúc càng phi nhanh hơn trong 5 năm trở lại đây. Trong giai đoạn 2010-2015, tốc độ vay nợ công của Việt Nam trung bình mỗi năm đã tăng gấp đôi so với giai đoạn 2006-2010, và đến năm 2015 thì con ngựa nợ công này phi nhanh nhất, đạt gần 4% GDP. Với tốc độ kinh hoàng đó thì thực khó mà hãm được nó lại chỉ trong vòng 1 năm ngắn ngủi. Đó là chưa kể, mục tiêu chúng ta đặt ra là phải giảm nợ công từ mức 64,9% năm 2016 xuống còn 60,4% vào năm 2020, cũng là một mục tiêu rất khó thực hiện nếu như vẫn muốn duy trì tốc độ tăng trưởng cao.
Giải pháp nào?
Có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đang ở trong một thế kẹt. Chúng ta đang đứng trước năm bản lề 2016 với kỳ vọng nền kinh tế cất cánh với những thuận lợi đạt được từ các hiệp định thương mại như TPP và các FTA, đồng nghĩa với việc cần huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển. Nhưng mục tiêu này lại đang bị kéo chân bởi mức nợ công sắp đạt trần, mỗi năm Việt Nam sẽ phải chi một khoản tiề.n lớn để trả nợ gốc và lãi nợ, trong khi chúng ta lại rất cần nguồn lực để đầu tư trong thời điểm bản lề then chốt này.
Giải pháp khả dĩ nhất lúc này để hãm con ngựa nợ công lại, là kiểm soát thật chặt việc phân bổ các nguồn vốn vay cho các địa phương và các dự án lớn. Việc sử dụng nguồn vốn vay tràn lan, lãng phí và thiếu hiệu quả là nguyên nhân phát sinh tình trạng hiện nay. Cách đây không lâu, Bộ Tài chính đã trình chính phủ đề án buộc tất cả các khoản vay của chính phủ chuyển lại cho các địa phương theo quy chế cho vay lại có tính lãi suất. Điều này sẽ buộc tất cả các địa phương phải tính toán kỹ hiệu quả đầu tư và cân đối tài chính.
Đồng thời, một việc khác quan trọng không kém là kiểm soát hiệu quả vốn đầu tư tại các dự án của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tính đến thời điểm hiện tại, nợ bảo lãnh chính phủ mà phần lớn là dành cho các dự án của các DNNN đã lên tới 19%. Việc chính phủ thông qua đề xuất ngưng cấp bảo lãnh vay cho các dự án lớn không đảm bảo tính khả thi của các DNNN, đồng thời xem xét chuyển dần việc bảo lãnh cho các DNNN sang các ngân hàng thương mại, nếu được thực hiện đúng, tức là chính phủ sẽ không gây sức ép buộc các ngân hàng thương mại phải cho các DNNN vay tiề.n thì nợ công có thể sẽ được hãm lại trước vực thẳm. Dù chỉ còn 1 năm ngắn ngủi, nhưng cơ hội dành cho Việt Nam để chặn đà tăng nợ công vẫn còn, nhưng nó chỉ xảy ra khi chúng ta thực sự quyết tâm làm điều đó mà thôi.
Lâu dài hơn, phải tái cơ cấu nền kinh tế thế nào để nền kinh tế có thể phát triển theo chiều sâu, phát huy hết hiệu suất và tiềm năng sẵn có và ngày càng bớt lệ thuộc vào các khoản vay để đầu tư.
Theo Một thế giới
Bội chi ngân sách: Đừng chủ quan! Tổng cục Thống kê cho biết, tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/5/2016 ước tính đạt 346.200 tỷ đồng, bằng 34,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 284.200 tỷ đồng, bằng 36,2%; thu từ dầu thô 13.900 tỷ đồng, bằng 25,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 47.800 tỷ...