Ba người đàn bà trong “ngôi nhà không chồng”
Suốt mấy chục năm qua, trong căn nhà nhỏ ấy, 3 chị em ruột không chồng vẫn cố gắng, gồng gánh nhau mưu sinh để tồn tại qua ngày. Cái đói, cái khổ cùng bệnh tật theo thời gian cứ bám riết vào họ khiến cho giọt nước mắt bi thương của những người đàn bà bạc phận
Suốt mấy chục năm qua, trong căn nhà nhỏ ấy, 3 chị em ruột không chồng vẫn cố gắng, gồng gánh nhau mưu sinh để tồn tại qua ngày. Cái đói, cái khổ cùng bệnh tật theo thời gian cứ bám riết vào họ khiến cho giọt nước mắt bi thương của những người đàn bà bạc phận này luôn phải chực trào, tủi phận trước cảnh đời quá nhiều éo le cay đắng…
Nước mắt của 3 chị em ruột không chồng
Dưới cái nắng chói chang rát mặt, chúng tôi lại tìm đến thôn Ngọc Chi, xã Quỳnh Bảo, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Nhưng lần này không giống như những lần khác, một cuộc gặp gỡ đã để lại trong tôi nhiều xúc động, nhiều thương cảm.
Ba chị em bà Nghiên, bà Út, bà Lịch (từ trái sang) trong căn nhà tuềnh toàng
Ngồi nghỉ chân dưới gốc cây đa làng, uống một ngụm trà đá chúng tôi được nghe bà Thắm, chủ quán nước, kể về tình cảnh éo le, nỗi vất vả của 3 chị em ruột không chồng ở đây: “Mấy chị em bà ấy thì khổ nhất ở xã tôi rồi. Người nọ bám víu vào người kia chú ạ! Ai cũng bệnh tật nan y. Khổ! Yếu đau là vậy nhưng vẫn cứ phải làm lụng kiếm cái ăn, nghĩ mà tội! Ngày qua ngày chị em vẫn bên nhau đùm bọc, chan gắp cho nhau từng cọng rau, muỗng cháo mà sống thôi”.
Theo lời bà Thắm, chúng tôi tìm đến ngôi nhà của 3 bà lão không chồng. Cũng không khó lắm, đến cuối xóm rồi tắt ngang qua cánh đồng là đến được nơi trú ngụ của các bà. Nhìn từ xa, chúng tôi đã thấy bóng dáng hom hem của từng bà một, họ đang đỡ đần dắt díu nhau trong căn nhà nhỏ.
Bà Lưu Thị Nghiên năm nay đã 63 tuổi, là người chị cả, khi thấy khách lạ đến chơi nhà, bà chầm chậm bước ra sân, rồi nở một nụ cười hiền hậu. Giữa bốn bề xóm làng, những rặng cây xà cừ cao lớn tiếng ve sầu đậu trên ngọn kêu inh ỏi cũng không đủ để che lấp đi tiếng rên của người đàn bà với nước da xanh nhợt đang nằm yếu ớt trên giường vì bệnh tật hành hạ. Thấy vậy chúng tôi nhanh nhẹn hỏi, bà Nghiên cất lời: “Kia là Lịch, em gái thứ 2 của tôi. Ngày nào cũng lên cơn sốt rét 2 – 3 lần, lại còn đau tim nữa. Mỗi ngày phải tiêm 4 – 5 mũi thuốc kháng sinh vào người”.
Bà Lưu Thị Lịch (SN 1953), thời trẻ từng tình nguyện tham gia làm công nhân quốc phòng ở Phong Thổ (Lai Châu). Sau trận sốt rét ác tính bà bị mất sức lao động, rồi trở về địa phương. Do giấy tờ bị thất lạc, đến nay bà không được hưởng chế độ gì. Cũng vì bệnh tật, 30 năm qua bà chưa một lần bước chân ra khỏi nhà. Ngày qua ngày bà luôn phải chịu những cơn đau tim hành hạ đến tím tái cả mặt, rồi cả những trận sốt rét gai người không ngừng ” tấn công” âm ỉ vào thân thể gầy còm.
Bà tâm sự với chúng tôi bằng cái giọng yếu ớt, chốc chốc lại nghẹn lại nơi cổ họng: “Các chú đến chơi là quý lắm rồi, còn quà cáp làm gì. Sức khỏe tôi mấy bữa nay cũng yếu hơn nhiều, tim nó đau liên hồi chú ạ”. Nói xong bà thở yếu hơn trước, rồi dồn chút sức lực cố gắng gượng dậy, bà đưa tay lấy ở phía đầu giường ra vỏ một hộp bánh, bên trong có đựng vài ống thuốc kháng sinh và kim tiêm. Chúng tôi thấy bà phải gắng gượng lắm mới điều khiển nổi việc tự tiêm vào bắp tay của mình để “trị bệnh”. Nhìn bà chịu đau, chúng tôi chỉ ước sao được gánh thay phần nào sự đau đớn của bà.
Vì nhà nghèo không có tiền gọi bác sĩ, suốt mấy chục năm qua, một mình bà Lịch ở nhà vẫn tự mình làm như vậy. Lâu dần rồi cũng quen, vì vậy mà trên cánh tay bà giờ nổi đầy những đường gân xanh, nhiều cục u, chi chít mẩn đỏ và những vết sẹo theo thời gian. Khi có người em út ở nhà tiêm giúp, bà bớt đau hơn. Bà sợ hãi nhớ lại về lần đầu khi người em út liều tiêm: “Lần đầu tiên bà ấy chọc bừa làm cong cả mũi kim, không trúng ven, máu tràn ra ngập cả xi-lanh. Tôi đau quá cắn răng chịu đựng, cố gắng không khóc song vẫn không kìm được. Thấy tôi khóc, bà ấy cũng khóc theo” – bà Lịch bật khóc tâm sự.
Video đang HOT
Bà Lưu Thị Lịch đang tự tiêm thuốc
Nhà chỉ có 3 chị em gái, mồ côi bố mẹ từ nhỏ, lại mang bệnh tật nên cuộc sống càng túng quẫn. Năm 2005, bà Nghiên bị thiên đầu thống, đi mổ ở bệnh viện tỉnh Thái Bình. Nhưng khi mới mổ mắt được vài ngày, nghe đài báo bão bà lại phải vội vã ra đồng gặt lúa. Đến ngày đi cắt chỉ, nhưng vì chưa gặt xong, sợ bão rụng hết lúa nên bà cố gắng gặt hết.
Thế rồi khi lên viện, bác sĩ cho biết đã quá ngày hẹn nên không thể cắt được. Bà đành ra về “nuôi” sợi chỉ khâu trong mắt. Cho đến một ngày phải nhập viện vì đôi mắt mờ hẳn đi, không còn nhìn được như trước nữa. Năm 2008 may mắn nhờ có sổ bảo hiểm hộ nghèo, bà Nghiên được đi mổ. Nhưng cũng không kết quả mấy, đôi mắt vẫn cứ ngày một mờ, mọi công việc đều cần phải bà Út giúp đỡ.
Đói nghèo, bệnh tật, 3 chị em ôm nhau khóc thương cho phận đời
Trong nhà duy nhất chỉ có bà Lưu Thị Út sức khỏe phần nào khá hơn 2 chị. Năm nay bà 51 tuổi, nhưng ngày ngày vẫn ngược xuôi lo kiếm tiền thuốc thang cho chị. Mang trong người căn bệnh viêm khớp nhưng bà vẫn gắng gượng đảm nhiệm cấy 5 sào ruộng: “Bệnh tình của các chị như vậy, tôi không quản nắng mưa, quần quật làm thuê trên mọi thửa ruộng, phụ hồ, chỉ mong sao kiếm được chút tiền công ít ỏi. Nhớ năm kia nhà cửa dột nát, hôm đấy tôi và bà cả mải đi cấy thuê, bà Lịch ốm đau nằm nhà. Tối về nhìn thấy chị rét run co ro ở trên giường mà xót. Mưa to quá, lại ốm mệt nên không biết chạy đi đâu đành chịu ướt lạnh cả người chú ạ”.
Rồi bà kể về những đêm đông rét buốt, để chống chọi với cái khắc nghiệt của thời tiết, 3 chị em bà vẫn thường xuyên phải lót rơm khô trên giường cho ấm. Lọm khọm xách thùng bột sắn từ phía trong buồng ra, bà Nghiên nhẹ nhàng lấy tay bóp từng nắm bã sắn lấy tinh bột, đợi nắng lên, bà đem số bột ấy phơi khô nấu ăn dần thay cơm cho những ngày sắp tới.
Đang làm việc, nghe tiếng bà Lịch kêu yếu ớt ở trên giường, bà lại hốt hoảng bỏ nắm bã sắn, vội vã chạy vào xoa ngực cho người em để giảm bớt cơn đau tim đang hành hạ. Gần đây bà Lịch lại mắc thêm bệnh suy thận, thế nên bà Út làm vất vả được đồng nào đều chắt chiu mua thuốc dành riêng cho hai người chị, còn bà Lịch thì cố gắng đỡ đần em những công việc nhẹ.
Nhà có mảnh vườn nhỏ, bà Út căng lưới nuôi 3 con gà mái đẻ lấy trứng, thỉnh thoảng cũng cải thiện được bữa ăn. Bữa ăn hằng ngày của 3 chị em vẫn là nước mắm hay lá su hào hàng xóm mang cho, lá su hào bà cắt nhỏ để nấu cháo ăn. Thời gian rảnh rỗi chưa vào vụ, bà dọn dẹp cho các hộ chăn nuôi trong xã hoặc đi bế trẻ thuê. Mỗi lần như thế thù lao kiếm được chừng vài chục ngàn đủ mua thuốc thang.
Bà kể, nhiều hôm nhà hết gạo, ba chị em đói quá không có gì vào bụng. Bà con lối xóm thương tình cho vay một ít, nhưng đến giờ vẫn chưa có mà trả. Chị em bà đành chịu đói, không dám hỏi vay mượn thêm của ai nữa. Ngồi đến quá trưa, 3 bà chỉ có vẻn vẹn một niêu cháo hoa “nguội lạnh” từ lâu, để dành cho bữa ăn chiều. Nhìn thấy thế, chúng tôi không khỏi xót xa.
Cuộc sống lắm gian nan, bà Út tâm sự trong làn nước mắt: “Sức khỏe của tôi giờ không còn được như trước, càng ngày càng yếu, chỉ có thể loanh quanh trong làng kiếm việc. May mà có được góc vườn cằn cỗi để trồng luống rau, luống cỏ sống qua ngày”. Hằng ngày khi nhìn mọi người sum vầy bên mâm cơm cùng con cháu, ba bà lại thèm khát một mái ấm gia đình. Nghĩ đến cuộc đời cô quạnh của mình, đôi ba lần các bà lại ôm nhau khóc, tủi thân cho số phận éo le và cay đắng.
Mọ chia sẻ giúp đỡ xin được gửi vê: Bà Lưu Thị Nghiên, thôn Ngọc Chi, xã Quỳnh Bảo, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Theo Dòng đời
Tiếng oan của người xây tháp rùa
Tháp rùa theo thời gian đã từ ngôi đền thờ thổ thần trở thành một di sản văn hóa của Thăng Long, của đất Việt... Nhưng đến tận thời khắc này, người có công xây dựng nên công trình tuyệt phẩm ấy vẫn mang tiếng oan là tay sai cho Pháp...
Người xây tháp Rùa ngày ấy
Những văn bản cổ của Việt Nam (bằng chữ Nôm, chữ Hán) chính sử về việc xây dựng tháp rùa hiện không còn (hoặc không có) bởi đơn giản một điều: Lúc mới ra đời, tháp rùa đặt giữa hồ Hoàn Kiếm chỉ là một gò đất hoang và không mang một giá trị văn hiến, khảo cứu nào. Những tư liệu tin cậy nhất (ghi chép cổ nhất) hầu hết là tiếng Pháp.
Ghi chép cổ nhất tính đến thời điểm này về tháp rùa là của Paul Bourde - phóng viên thường trú Báo Le Temps (tờ báo lớn nhất Thụy Sĩ hiện nay và đã có hơn 200 năm tuổi đời) tại Hà Nội. Trong cuốn "Từ Paris đến Bắc Kỳ" (De Paris au Tonkin - Paris, 1885), Paul Bourde mô tả tháp rùa như sau: "Ở đằng xa trên một hòn đảo có một cái chùa khác mang hình tháp, người xây dựng nó là Ba Kim".
Cuốn "Những ngôi chùa Hà Nội" (Les pagodes de Hanoi - xuất bản năm 1887) của Gustave Dumoutier (1850-1904) viết về tháp rùa: "Bên trong, trên tường sơn tên chữ của viên quan (Ba Kim) đã xây công trình này. Ông ta trước đây 3 năm làm Tri phủ phủ Thường Tín rồi về làm Thương biện phủ Hoài Đức, sau dính vào một vụ chính trị nên năm 1886 bị cách chức và quản thúc ở Hà Nội".
Cái nhìn về người xây dựng tháp Rùa hiện vẫn còn nhiều ẩn khuất.
Trong cuốn "Ở Bắc Kỳ: Ghi chép và kỷ niệm" (Au Tonkin-notes et souvenirs - Hà Nội, 1925) của Bonnal - công sứ đầu tiên ở Hà Nội từ năm 1883 đến năm 1885, có đoạn về tháp rùa: "Được xây dựng cách đây vài năm bởi một người lĩnh trưng thu thuế đánh cá tên là Nguyen Huu Kiem, thường gọi là Ba Ho Kiem".
Cuốn "Bắc Kỳ xưa" (Le vieux Tonkin) của Claude Bourrin (là nhân viên thuế ở Bắc Kỳ từng sống và làm việc ở Hà Nội từ năm 1898) đã tập hợp các bài báo viết về Hà Nội từ năm 1884 đến 1894. Về phần tháp rùa, ông viết: "Tháp Rùa chính tên là Quy son thap được xây năm 1877"... Như vậy, theo các tài liệu trên, tháp rùa được xây năm 1877. Nhưng người xây dựng là Ba Ho Kim (Bá hộ Kim) hay Nguyen Huu Kiem lại là một ẩn số.
Tuy nhiên, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc đã có tác phẩm nghiên cứu kỹ càng về người xây tháp rùa và làm sáng tỏ ẩn số đó. Phần tháp rùa trong "hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn" của Nguyễn Vinh Phúc khá đầy đủ, từ kiến trúc đến chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Ông Phúc đưa ra nhận định rằng Bonnal (Công sứ đầu tiên tại Hà Nội) viết sai chữ Kim thành chữ Kiem (lỗi cơ bản khi chuyển hóa ngôn ngữ từ tiếng Việt sang tiếng Pháp vào đầu thời kỳ Pháp thuộc), như vậy là Nguyễn Hữu Kim chứ không phải Nguyen Huu Kiem.
Trao đổi với chúng tôi, ông cho biết đã được xem gia phả của chi trưởng và gia phả của chi thứ 5 dòng họ Nguyễn Hữu ở làng Cựu Lâu (nay là khu vực Tràng Tiền, Hàng Khay) nên có thêm một số chi tiết mới: Bá Kim tên thật là Nguyễn Hữu Kim (1832-1901), có tên khác là Liên (Nguyễn Hữu Liên), hiệu Chu Ái. Bá Kim là hào mục làng Cựu Lâu được hàm Bá hộ, ông có một cửa hàng bán đồ khảm trai tên là Vĩnh Bảo...
Trả lại cho lịch sử những điều chân thực
Các tác phẩm khảo cứu có giá trị trên đều xuất bản bằng tiếng Pháp, có lẽ thế mà dư luận Việt Nam (nhất là những người quan tâm đến văn hóa Thăng Long) trước đây đều nghiêng theo một quan điểm duy nhất về người xây tháp rùa qua ghi chép của Doãn Kế Thiện. Doãn Kế Thiện (1891-1965) là nhà báo, dịch giả chữ Hán, người nghiên cứu Hà Nội và là nhà Nho hoạt động cách mạng.
Trong cuốn "Cổ tích và thắng cảnh" (NXB Văn hoá, xuất bản năm 1959) của Doãn Kế Thiện, phần về tháp rùa đã viết: "Gò rùa là nơi Chúa Trịnh dựng Tả Vọng đình để làm nơi nghỉ mát trong mùa hè. Một tên tay sai của thực dân Pháp là Bá Kim hay Thương Kim tin thuyết phong thủy nói gò này là kiểu đất "vạn đại công khanh" để chôn hài cốt tiền nhân vào đó con cháu sẽ muôn đời nối nhau làm quan cao chức trọng...
Y dùng riêng một số tay chân làm thợ nề dự định ngay đêm khai móng chờ đến khuya tối giời, đem hài cốt cha mẹ để sẵn trong 2 cái quách nhỏ ngầm chôn xuống giữa gò, rồi lấp kín định hôm sau sẽ xây thành nền tháp cao. Việc y làm rất kín đáo, tưởng không ai biết... nhưng một việc xảy ra không ngờ. Sáng hôm sau, y hớn hở cùng người nhà và thợ nề vừa ra tới gò thì bỗng kêu trời và ngã ra, 2 cái quách gỗ bị quật lên từ lúc nào chỉ còn quách không, 2 bộ hài cốt đều không thấy đâu nữa.
Không thực hiện được âm mưu, nhưng đã hứa với mọi người là xây tháp, không thể bỏ được, y đành phải cắn răng tiếp tục làm cho xong việc. Riêng thực dân Pháp thì thưởng công cho y bằng cách gọi tên tháp ấy là tháp Bá Kim...".
Câu chuyện mang màu sắc hoang đường nhưng cực kỳ hợp lý trong thời điểm đả tư sản, địa chủ, phong kiến hồi ấy đã có những điểm mâu thuẫn mà nhiều người không nhận ra. Thứ nhất, thời điểm năm 1877 (năm Nguyễn Hữu Kim xây tháp rùa) là lúc Pháp còn chưa đặt nền bảo hộ trên xứ Bắc.
Sau thời điểm xây tháp tới 7 năm, năm 1884, Pháp mới chính thức đặt nền bảo hộ lên xứ Bắc Kỳ và đưa nhân lực sang tiếp quản bộ máy chính quyền, như vậy Nguyễn Hữu Kim không thể là tay sai của thực dân Pháp khi Hà Nội còn dưới quyền cai quản của triều đình Huế được. Cuốn "Những ngôi chùa Hà Nội" (Les pagodes de Hanoi - xuất bản năm 1887) của Gustave Dumoutier đã kể chi tiết về người xây tháp rùa:
"Ông ta trước đây 3 năm làm Tri phủ phủ Thường Tín rồi về làm Thương biện phủ Hoài Đức, sau dính vào một vụ chính trị nên năm 1886 bị cách chức và quản thúc ở Hà Nội".
Cái án chính trị ấy chính là đòn trả thù của thực dân Pháp sau khi lên nắm quyền cai trị nhằm vào Nguyễn Hữu Kim (gia phả dòng họ Nguyễn Hữu làng Cựu Lâu - PV). Năm 1882, thủ thành Hoàng Diệu tử tiết khi Pháp chiếm đóng Hà Nội và để lại đôi dòng chữ chưa đầy trang giấy mà oán hận ngút trời mây: "Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng".
Lúc đó, Nguyễn Hữu Kim chính là người nằm trong số những "nhân sĩ Bắc thành" tổ chức đám tang cho vị thủ thành "Sinh Quảng Nam - thác Hà Thành" kia, cái án chính trị của ông là vì lẽ thế. Chi tiết về vụ án chính trị của Nguyễn Hữu Kim lại chỉ thể hiện trong gia phả dòng họ, chưa có điều kiện kiểm chứng. Tuy nhiên, một viên quan bị chính phủ bảo hộ cách chức và quản thúc tại Hà Nội thì không thể và không bao giờ làm tay sai cho Pháp được.
Lịch sử có nhiều biến động nhưng sự thực của lịch sử chỉ có một và đã đến lúc cần trả lại sự trong sạch cho người xây tháp rùa. Dù đến tận bây giờ mới nói lại chuyện ấy cũng đã là quá muộn.
Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Dung- nguyên Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, hậu duệ của cụ Nguyễn Hữu Kim chia sẻ: "Chúng tôi chỉ mong rằng sự thật lịch sử về người xây tháp rùa được đặt lại nguyên vẹn bên hồ Gươm" .
Theo vietbao
Kết thúc oan nghiệt sau màn... đổi vợ kì dị Hai cặp vợ chồng ấy một thời đã từng là bốn người bạn thân thiết như anh chị em ruột. Thế rồi, chỉ sau chuyện trên bàn rượu, họ đã quyết định chẳng thể ai ngờ tới: tráo đổi vợ chồng cho nhau! Cái kết cho hành động trái luân thường đạo lý đó là liên tục những bi kịch xảy ra. Ông...