Áp xe gan do amip: Nguyên nhân, biểu hiện, cách điều trị và phòng bệnh
Áp xe gan do amip là bệnh do nhiễm đơn bào Entamoeba Histolytica, gây ra các tổn thương đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng, bệnh có xu hướng kéo dài và mạn tính nếu không được điều trị tích cực.
1. Nguyên nhân gây áp xe gan do amip
Amip thuộc loại nguyên sinh vật (Protozeaire) họ Entamoeba. Ở người gồm có 4 loại là Entamoeba, Endolima, Pseudolima, Dientamoeba. Tuy nhiên, thường chỉ có loại E. Histolytica hoạt động gây bệnh. Thể E. Minuta sống cộng sinh không gây bệnh ở đại tràng.
Một số yếu tố thuận lợi có thể góp phần cho amip gây bệnh, các yếu tố đó có thể tùy thuộc chủng amip, tạp khuẩn ruột sẵn có kết hợp và sức đề kháng của cơ thể.
- Chủng amip: Một số tác giả cho rằng chủng amip ở các quốc gia vùng Đông Nam Á có tính gây bệnh cao hơn các chủng vùng bắc Phi.
- Tạp khuẩn ruột kết hợp: Là một yếu tố quan trọng, khi giết các tạp khuẩn bằng thuốc kháng sinh thì bệnh lỵ amip cũng giảm đi, người bệnh tưởng rằng mình đã thực sự hết bệnh. Trong thực hành lâm sàng cho thấy bệnh lỵ amip có thể xảy ra sau bệnh truyền nhiễm như thương hàn hoặc phối hợp với lỵ trực trùng.
- Sức đề kháng: Mang mầm bệnh thời gian dài nhưng không bị bệnh, nhân cơ hội nhiễm khuẩn và virus, sức đề kháng của cơ thể suy giảm thì khi đó bệnh amip sẽ xuất hiện.
Nhiễm amip thường lây qua đường tiêu hóa do thức ăn, nước uống nhiễm kén amip, trẻ em hoặc người lớn để móng tay dài cũng là điều kiện cho mầm bệnh amip khi đưa vào tay miệng sau khi đi vệ sinh… kén amip tồn tại ở ngoại cảnh tương đối ổn định. Chẳng hạn ở điều kiện nhiệt độ 17 – 20C chúng tồn tại hàng tháng; ở 45C kén sẽ chết sau 30 phút, ở 85C chết nhanh sau vài giây. Với các thuốc khử trùng Crezyl 1/250 có thể diệt kén amip trong vòng 5 – 15 phút và thuốc này cũng thường đề cập trong các tài liệu nhiễm khuẩn bệnh viện.
Thương tổn mạch máu ở đại tràng giúp amip theo tĩnh mạch vào tuần hoàn cửa hoặc hệ bạch mạch đến gan, ở đây chúng thường bị chặn lại bởi các xoang tĩnh mạch, gây ra hoại tử để thành lập các ổ áp xe gan.
Bệnh cảnh có thể xuất hiện sau viêm đại tràng do amip, nhưng cũng có một số lớn trường hợp không có tiền sử lỵ amip. Ổ áp xe là một vùng hoại tử vô khuẩn lan rộng trong nhu mô gan và ít có phản ứng viêm nhu mô gan vùng lân cận, tổn thương thùy phải nhiều hơn thùy trái.
Khi bị nhiễm amip người bệnh sẽ xuất hiện những tổn thương đặc trưng là loét tại niêm mạc đại tràng. Bệnh có xu hướng kéo dài, mạn tính nếu không được điều trị tích cực. Tổn thương mạch máu tại đại tràng sẽ hỗ trợ amip theo tĩnh mạch vào tuần hoàn cửa hay hệ bạch mạch tới gan.
Áp xe gan do amip là bệnh do nhiễm đơn bào Entamoeba Histolytica.
Video đang HOT
2. Dấu hiệu áp xe gan do amip
Biểu hiện lâm sàng đa dạng, tùy thuộc vào từng thể, từng giai đoạn khi bệnh nhân đến viện.
Với thể điển hình chiếm khoảng 60 – 70% trường hợp sẽ có 3 triệu chứng chủ yếu:
- Sốt: Có thể 39 – 40 độ C hoặc sốt nhẹ 37,5 – 38 độ C. Thường sẽ bị sốt 3 – 4 ngày trước khi đau hạ sườn phải và gan to, nhưng cũng có thể xảy ra đồng thời với 2 triệu chứng đó.
- Đau hạ sườn phải và vùng gan: Đau ở các mức độ khác nhau từ cảm giác tức nặng nhoi nhói từng lúc, đến đau mức độ nặng, đau khó chịu không dám cử động mạnh.
- Gan to và đau: Gan to không nhiều 3 – 4 cm dưới sườn phải mềm, nhẵn, bờ tù, ấn đau.
Ngoài ra, có thể gặp một số triệu chứng khác như: Rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi, gầy sút nhanh, có thể có phù nhẹ ở mu chân, cổ trướng, tràn dịch màng phổi.
Ở thể không điển hình thường có các biểu hiện sau:
Biểu hiện vàng da : Chiếm 3% do khối áp xe đè vào đường mật chính. Thể này bao giờ cũng nặng, dễ nhầm với áp xe đường mật hoặc ung thư gan, ung thư đường mật.
Với thể không đau: Gan to nhưng không đau, do ổ áp xe ở sâu hoặc ổ áp xe nhỏ, thể này chiếm khoảng 1,9%.
Biểu hiện sốt: Người bệnh có thể sốt kéo dài hàng tháng trở lên, liên tục hoặc ngắt quãng, gan không to thậm chí cũng không đau, gặp ở khoảng 5% số bệnh nhân. Tuy nhiên, một số trường hợp không sốt, hoặc có sốt rất ít, chỉ sốt từ một đến ba ngày rồi hết hẳn, làm cho bệnh nhân không để ý, chỉ thấy đau hạ sườn phải, gầy sút cân… thể này chiếm khoảng 9,3%.
Thể suy gan: Do ổ áp xe quá to phá hủy 50% tổ chức gan, ngoài phù cổ trướng thăm dò chức năng gan bị rối loạn, người bệnh có thể chết vì hôn mê gan.
Thể áp xe gan trái: Rất ít gặp, chiếm khoảng 3 – 5% trường hợp, chẩn đoán khó, dễ vỡ vào màng tim gây tràn mủ màng tim.
Thể phổi màng phổi: Do viêm nhiễm ở gan lan lên gây phản ứng màng phổi, hay do vỡ ổ áp xe lan lên phổi. Thể này chẩn đoán rất khó, thường nhầm với bệnh của phổi màng phổi.
Thể có tràn dịch màng ngoài tim: Ngay từ đầu khi thành lập ổ áp xe ở gan đã có biến chứng vào màng ngoài tim, triệu chứng về bệnh tim nổi bật, còn triệu chứng về áp xe gan bị che lấp di. Thể này thường chẩn đoán nhầm là tràn dịch màng ngoài tim.
Thể giả ung thư gan: Gan cũng to và cứng như ung thư gan, hoặc cũng gầy nhanh. Thể này gặp tỉ lệ 15 – 16% trường hợp.
3. Áp xe gan do amip có lây không?
Bệnh áp xe gan không lây truyền từ người sang người. Tuy nhiên, amip gây bệnh này lại có khả năng lây lan nhanh. Con đường lây truyền của amip gây áp xe gan chính là đường phân – miệng. Amip sau khi xâm nhập qua niêm mạc ruột của con người và có thể đi vào trong tĩnh mạch cửa đến gan và gây viêm nhiễm.
4. Cách phòng áp xe gan do amip
Amip là nguyên sinh vật đơn bào, thường gây bệnh ở người và phát triển mạnh trong môi trường khí hậu nhiệt đới. Để phòng ngừa bệnh do amip gây ra, trong đó gồm áp xe gan, cần lưu ý:
- Biện pháp phòng bệnh chủ yếu là vệ sinh ăn uống, tránh để lây nhiễm kén amip vào thức ăn, nước uống; giải quyết tốt vấn đề môi sinh (phân, nước, rác, an toàn thực phẩm, nước uống, ruồi gián…); tuân thủ thói quen ăn chín, uống nước hợp vệ sinh.
- Tuyệt đối không dùng phân tươi bón rau, quả. Khi dùng rau quả tươi phải rửa sạch, phải khử trùng hoặc có xử lý bằng tia cực tím để diệt kén amip.
- Xét nghiệm và điều trị người lành mang bào nang, đặc biệt là ở những người làm nghề phục vụ ăn uống. Điều trị những người mang kén amip bằng thuốc Metronidazole.
Khi bị chứng lỵ do amip đại tràng, người bệnh cần thăm khám càng sớm càng tốt để được điều trị triệt để, ngăn ngừa amip di chuyển vào gan, gây áp xe và tổn thương gan.
5. Cách điều trị áp xe gan do amip
Điều trị áp xe gan amip là một điều trị nội ngoại khoa hoặc kết hợp kỹ thuật chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc CT- Scan. Kết quả điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng chung của bệnh nhân, giai đoạn phát triển của bệnh, tình trạng tổn thương gan, số lượng, vị trí, kích thước của ổ áp xe.
Với điều trị nội khoa thường sử dụng các thuốc thuộc nhóm Imidazole, trong đó đáng chú ý là Metronidazole hoặc Tinidazole.
Chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm, rửa sạch mủ sau đó có thể bơm trực tiếp thuốc diệt amip vào ổ áp xe.
Phẫu thuật hiện nay rất hạn chế dùng, chỉ tiến hành ở các ổ áp xe quá lớn, không chọc hút được hoặc điều trị nội khoa thất bại.
Quảng Ninh: 4 trường hợp nhiễm 'vi khuẩn ăn thịt người'
Các trường hợp mắc bệnh whitmore (còn gọi là bệnh 'vi khuẩn ăn thịt người') đang được điều trị tại Bệnh viện Bãi Cháy ở Tp.Hạ Long (Quảng Ninh), trong đó, có 2 người bệnh trên 60 tuổi.
Ngày 12/8, theo thông tin từ Bệnh viện Bãi Cháy ở Tp.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Khoa Bệnh Nhiệt đới của bệnh viện đang tiếp nhận điều trị 4 trường hợp người bệnh mắc bệnh whitmore (còn gọi là bệnh "vi khuẩn ăn thịt người").
Những người bệnh này có biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, diễn biến bán cấp tính gây tổn thương đa dạng nhiều cơ quan, làm suy yếu hệ miễn dịch như nhiễm khuẩn huyết, áp xe gan, áp xe cẳng chân, viêm màng não.
Trong đó, có 2 người bệnh trên 60 tuổi có bệnh lý nền bị tổn thương nghiêm trọng, thời gian điều trị dài ngày. Điển hình như người bệnh V.T.H., 67 tuổi, trú tại Tp.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Người bệnh có tiền sử bệnh đa u tủy xương, tăng huyết áp được chuyển từ bệnh viện tuyến trên về điều trị với chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei (whitmore), có ổ di trú viêm phổi.
Bác sĩ thăm khám người bệnh mắc bệnh whitmore đang được điều trị tại Bệnh viện Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh (Ảnh: Bệnh viện Bãi Cháy).
Hay trường hợp người bệnh Đ.T.D., 62 tuổi, trú tại Tp.Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có tiền sử đái tháo đường đang điều trị. Người bệnh nhập viện trong tình trạng sốt, gai rét, đau mỏi người, sưng đau phần mềm cẳng chân trái có mủ, hội chứng nhiễm trùng rõ. Các bác sĩ chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết, áp xe cẳng chân do khuẩn whitmore trên nền bệnh nhân đái tháo đường và điều trị bằng kháng sinh, dẫn lưu ổ áp xe tại cẳng chân.
Theo bác sĩ CKII Phạm Công Đức, Trưởng Khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Bãi Cháy, bệnh whitmore có biểu hiện về lâm sàng rất đa dạng, tổn thương rất nhiều cơ quan và bệnh diễn biến theo hướng bán cấp tính nên đôi khi thầm lặng. Người bệnh diễn biến từ từ và khi nhập viện thì đã có những ổ áp xe rất sâu, biểu trên nhiều cơ quan. Tỉ lệ tử vong tương đối cao nếu không điều trị kịp thời.
Nhiễm trùng Burkholderia pseudomallei có thể là nhiễm trùng tiềm ẩn và tái kích hoạt giống bệnh lao. Hiện chưa có vaccine phòng bệnh và bệnh không lây từ người sang người.
Nguyên nhân gây bệnh whitmore là do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei. "Vi khuẩn ăn thịt người" này thường sống trong bùn đất, nhất là những vùng đất ẩm, nước bị nhiễm khuẩn và xâm nhập vào cơ thể người chủ yếu qua da khi có vết thương hở tiếp xúc trực tiếp với đất, nước bị nhiễm khuẩn.
Theo khuyến cáo của bác sĩ, các biện pháp phòng bệnh "vi khuẩn ăn thịt người" chủ yếu là bảo đảm vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, sử dụng bảo hộ lao động khi làm việc có tiếp xúc với đất, nước bị nhiễm khuẩn cũng như làm sạch hoàn toàn vết rách da, trầy xước hoặc bỏng bị nhiễm bẩn và thực hiện ăn chín uống sôi.
Đặc biệt, khi người bệnh có các vết loét ở ngoài da, các triệu chứng như sốt, nhức mỏi tay chân, ho, đau bụng, đi lỏng nhiều lần cần đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám và chẩn đoán kịp thời.
Sốt cao 7 ngày, đau bụng, tưởng bị áp xe gan, bác sĩ mổ nội soi phát hiện điều bất ngờ Vừa qua, các bác sĩ Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa tiếp nhận và điều trị cho một trường hợp bệnh nhân khá đặc biệt khi bị xương cá cắm vào gan gây ổ áp xe gan. Mảnh xương cá được lấy ra khỏi cơ thể bệnh nhân. Ảnh: BVCC Anh N.H.H, 26 tuổi, ở Hà Nội có biểu hiện sốt...