Ảnh hưởng của bệnh giang mai với phụ nữ mang thai
Bệnh Giang mai, tiếng Pháp và tiếng Anh đều gọi là Syphili (tuy cách phát âm có khác nhau) là một bệnh nhiễm khuẩn trường diễn, lây lan qua đường tìn.h dụ.c.
Khi phụ nữ mang thai không may bị nhiễm bệnh sẽ làm lây sang thai nhi và sau khi ra đời em bé có thể mắc bệnh giang mai bẩm sinh do lây truyền từ mẹ.
Bệnh giang mai là gì?
Bệnh Giang mai là một bệnh nhiễm khuẩn trường diễn, lây lan qua đường tìn.h dụ.c, tiến triển phức tạp, có giai đoạn rầm rộ, có giai đoạn kín đáo, có thể ăn vào tất cả các phủ tạng người bệnh, đặc biệt là da và thần kinh, tim mạch, phá hoại sức khỏe của bệnh nhân, lại có thể lây truyền sang thế hệ con cháu.
Những ảnh hưởng của bệnh giang mai với phụ nữ mang thai
Trong thời kỳ thai nghén, bệnh Giang mai có những đặc điểm riêng: Các triệu chứng của bệnh Giang mai, đặc biệt ở thời kỳ thứ hai thường không rõ rệt bằng ở phụ nữ không mang thai, nên cần chú ý mới phát hiện được. Đó là một điều rất nguy hiểm vì có nguy cơ sau khi đẻ ra một em bé bị Giang mai mới phát hiện được bệnh ở người mẹ.
Xoắn khuẩn Giang mai có thể xâm nhập vào thai nhi trong thời gian em bé nằm trong bụng mẹ, thường chỉ xảy ra ở tháng thứ tư, thứ 5 trở đi của thời kỳ thai nghén (thông thường từ tuần thứ 16 đến tuần 18, 19 của thai. Như vậy, em bé bị bệnh là do cơ chế lây lan (chứ không phải là do di truyền như đã ngộ nhận trước đây) nên ngay từ khi lọt lòng mẹ em bé đã mắc bệnh Giang mai, gọi là “Giang mai bẩm sinh”
Tùy theo mức độ bị lây nhiễm nặng hay nhẹ, bệnh giang mai bẩm sinh sẽ có những nét khác nhau:
- Nếu thai nhi bị nhiễm khuẩn một cách ồ ạt thì sẽ không tồn tại được và bị sảy thai.
Video đang HOT
- Nếu nhẹ hơn: sẽ bị chế.t lưu hoặc đẻ non, và em bé rất ít khi sống sót.
- Nếu nhiễm khuẩn một cách nhẹ hơn nữa: Thai nhi có thể đẻ đủ ngày đủ tháng, nhìn có vẻ bình thường, nhưng sau vài ngày hoặc vài tháng, một năm sẽ thấy xuất hiện các thương tổn của giang mai như: bọng nước ở lòng bàn tay, bàn chân chẩy nước mủ lẫn má.u, nứt mép hoặc bị kiệt cánh tay do viêm xương và sụn. Người ta gọi là những thương tổn của bệnh ” giang mai bẩm sinh sớm”, thường xuất hiện trong vòng 2 năm đầu đời của em bé.
Tuy nhiên giang mai bẩm sinh có thể xuất hiện muộn hơn nữa, khi em bé đã lên 5 – 6 tuổ.i, thậm chí đã trưởng thành. Đó là bệnh “giang mai bẩm sinh muộn”.
Cách phòng lây nhiễm bệnh sang thai nhi khi thai phụ bị nhiễm bệnh
Vấn đề nay rất đơn giản và có kết quả chắc chắn: chủ yếu là quản lý theo dõi tốt thai nghén, phát hiện và chữa bệnh Giang mai kịp thời và đúng lúc cho thai phụ. Một thai phụ bị giang mai được điều trị sớm thì bệnh chắc chắn khỏi và thai nhi cũng không mắc bệnh. Xoắn khuẩn Giang mai chỉ có thể xâm nhập vào cơ thể thai nhi từ tháng thứ 4, thứ 5 trở đi nên nếu điều trị cho thai phụ trước đó thì thai nhi không bị nhiễm xoắn khuẩn.
Nếu đã muộn, càng gần ngày sinh bao nhiêu thì nguy cơ làm thai nhị Giang mai bẩm sinh càng lớn bấy nhiêu, và do đó hậu quả tai hại cho thai nhi càng lớn bấy nhiêu. Tuy vậy nếu được chữa chạy đúng phương pháp thì cả thai phụ và thai nhi đều có thể khỏi bệnh Giang mai.
Vì vậy, trong thời kỳ thai nghén ít ra là càn thử má.u 3 lần cho thai phụ: lần 1 vào tuần lễ thứ 4 của thai. Lần thứ hai vào tháng 6 và lần 3 vào tháng thứ 9, nếu có bênh, cần cho chữa trị ngay thì sẽ “mẹ tròn con vuông” với đầy đủ ý nghĩa và nội dung của câu nói đó.
Thai phụ mắc bệnh giang mai khi đang mang thai có tác hại rất lớn có thể dẫn tới tình trạng sảy thai, thai chế.t lưu, chế.t sau khi sinh hoặc em bé sẽ bị tổn thương thần kinh nghiêm trọng. Bệnh giang mai cũng làm tăng nguy cơ sinh non và hạn chế thai nhi tăng trưởng trong tử cung. Vì vậy, việc khám thai định kỳ và làm xét nghiệm sàng lọc sớm bệnh là rất quan trọng để làm giảm nguy cơ lây nhiễm bệnh sang thai nhi.
Theo CSTY
Ảnh hưởng của bệnh thủy đậu đến phụ nữ mang thai
Thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu có nguy cơ viêm phổi do virus varicella từ 10% - 20% và trong số người viêm phổi do virus này, nguy cơ t.ử von.g lên đến 40%. Tỷ lệ t.ử von.g ở phụ nữ mang thai mắc bệnh thủy đậu cao nhất trong số những người lớn nhiễm bệnh này.
Bệnh thủy đậu ảnh hường trên thai kỳ như thế nào?
Phụ nữ đã từng nhiễm bệnh thủy đậu trước khi mang thai hoặc đã được tiêm phòng bệnh thủy đậu thì được miễn dịch với bệnh này, trong cơ thể đã có kháng thể chống lại bệnh. Do đó, khi mang thai, những thai phụ đã có kháng thể chống lại bệnh thủy đậu không cần phải lo lắng về biến chứng của bệnh đối với bản thân họ cũng như thai nhi.
Thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu có nguy cơ viêm phổi do virus varicella 10 - 20%, trong số người viêm phổi do virus này nguy cơ t.ử von.g lên đến 40%.
Tỉ lệ t.ử von.g ở phụ nữ mang thai mắc bệnh thủy đậu cao nhất trong số những người lớn nhiễm bệnh này.
Đối với những thai phụ bệnh thủy đậu nguyên phát khi mang thai, sự ảnh hưởng của bệnh trên thai nhi tùy vào từng giai đọan tuổ.i thai:
- Trong 3 tháng đầu , đặc biệt tuần lễ thứ 8 đến 12 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 0.4%. Biểu hiện thường gặp nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là sẹo ở da. Những bất thường khác có thể xảy ra là tật đầu nhỏ, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển tâm thần.
- Trong 3 tháng giữa, đặc biệt tuần 13 - 20 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 2%. Sau tuần lễ thứ 20 thai kỳ, hầu như không ảnh hưởng trên thai.
- Nếu người mẹ nhiễm bệnh trong vòng 5 ngày trước sinh và 2 ngày sau sinh, bé sơ sinh dễ bị bệnh thủy đậu lan tỏa do mẹ chưa có đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Tỉ lệ t.ử von.g bé sơ sinh lúc này lên đến 25 - 30% số trường hợp bị nhiễm.
Bé bị thủy đậu bẩm sinh
Cách xử trí khi thai phụ bệnh thủy đậu.
Thai phụ cần được nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa, nếu sốt có thể dùng thuố.c hạ sốt paracetamol. Giữ vệ sinh thân thể, tránh làm vỡ những bóng nước vì có nguy cơ bội nhiễm.
Vì thai phụ có nguy cơ cao do biến chứng của bệnh thủy đậu: nên dùng varicella - zoster immune globulin (VZIG) đối với những thai phụ có phơi nhiễm với bệnh mà những thai phụ này chưa từng bị bệnh thủy đậu hoặc chủng ngừa.Việc dùng VZIG không phòng ngừa được nhiễ.m trùn.g bào thai, hội chứng thủy đậu bẩm sinh cũng như bệnh thủy đậu sơ sinh.
Như vậy việc dùng VZIG cho thai phụ chỉ phòng ngừa biến chứng nặng ở mẹ chứ không giúp ích cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh. Để dự phòng biến chứng cho trẻ, nên dùng VZIG cho bé sơ sinh.
Đối với thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu diễn tiến nặng có nguy cơ viêm phổi nên được tư vấn dùng Acyclovir đường tĩnh mạch để giảm nguy cơ cho cả mẹ và thai. Acyclovircó vai trò ức chế sự phát triển của virus nên ức chế sự phát triển của bệnh.
Thủy đậu là một bệnh nhiễm khuẩn biểu hiện ở ngoài da, nếu không xử trí tốt những bóng nước có thể vỡ ra và gây bội nhiễm, đặc biệt bệnh có thể làm ảnh hưởng đến thai nhi nên thai phụ nếu không may bị lây nhiễm trong thời gian mang thai cần phải đến cơ sở y tế được được chăm sóc. Khuyến cáo thai phụ mắc bệnh không nên tự bôi thuố.c hay điều trị tại nhà vì có thể gây ra những biến chứng khó lường. Thậm chí là t.ử von.g mẹ do nhiễ.m trùn.g má.u, tử cong chu sinh do nhiễm bệnh gần ngày sinh.
Theo CSTY
Điều trị nghén nặng khi mang thai Bị nghén khi mang thai là hiện tượng phổ biến. Nguyên nhân được cho rằng khi có thai, trong cơ thể phụ nữ sẽ xuất hiện các nội tiết tố mới do nhau thai tiết ra. Khi đó, tùy cơ địa của từng người, khả năng thích nghi với "vật thể lạ" này có thể nhanh, chậm, khó hay dễ khác nhau và...