Ảnh hưởng COVID-19, vốn FDI đăng ký chỉ bằng 84,5% so với cùng kỳ
Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, mặc dù vốn FDI đăng ký vẫn tăng song vốn góp mua cổ phần giảm mạnh khiến tổng vốn đầu tư trong bốn tháng chỉ ước đạt 12,33 tỷ USD.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, mặc dù vốn FDI đăng ký cấp mới và điều chỉnh vẫn tăng so với cùng kỳ song vốn góp mua cổ phần đã giảm mạnh và điều này làm giảm tổng vốn đầu tư từ đầu năm đến nay.
Cụ thể, tính đến ngày 20/4, tổng số vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (FDI) trong bốn tháng đầu năm ước đạt 12,33 tỷ USD, bằng 84,5% so cùng kỳ năm 2019. Theo đó, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân ước tính chỉ đạt 5,15 tỷ USD, bằng 90,4% so với cùng kỳ.
Tuy nhiên xét về giá trị, vốn đăng ký trong bốn tháng vẫn tăng so với cùng kỳ các năm 2016-2018, cụ thể tăng 52,3% so với năm 2018, 16,4% so với năm 2017 và 79% so với năm 2016.
Như vậy, từ đầu năm đến nay có 984 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đạt 6,78 tỷ USD (giảm 9,1% về dự án và tăng 26,9% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2019). Theo báo cáo, vốn đầu tư nước ngoài tăng chủ yếu từ dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG)-Bạc Liêu được cấp mới với giá trị vốn đầu tư 4 tỷ USD, chiếm 59% tổng vốn đăng ký mới.
Về vốn điều chỉnh, có 335 lượt dự án đăng ký với tổng giá trị tăng thêm 3,07 tỷ USD, tăng 45,6% so với cùng kỳ năm 2019. Báo cáo chỉ ra việc vốn điều chỉnh tăng đột biến sau khi giảm liên tục trong ba tháng đầu năm là do Dự án tổ hợp hóa dầu Miền Nam Việt Nam tại Bà Rịa-Vũng Tàu điều chỉnh tăng vốn thêm 1,386 tỷ USD.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài tham gia 3.210 lượt góp vốn, mua cổ phần với tổng giá trị gần 2,48 tỷ USD, tăng 32,9% số lượt góp vốn song về giá trị bằng 34,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Đáng chú ý, số lượt góp vốn, mua cổ phần mặc dù tăng song quy mô góp vốn lại nhỏ, bình quân chỉ có 0,77 triệu USD/lượt góp vốn. Cơ cấu giá trị góp vốn, mua cổ phần trong tổng vốn đầu tư đăng ký cũng giảm đáng kể so với cùng kỳ, từ 48,9% trong bốn tháng của năm 2019 xuống 20,1% của bốn tháng năm nay.
Theo lĩnh vực đầu tư, khối ngoại tiếp tục ưu tiên vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 6 tỷ USD, chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp đến là lĩnh vực sản xuất, phân phối điện với tổng vốn đầu tư 3,9 tỷ USD, chiếm 31,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Bên cạnh đó, lĩnh vực bán buôn bán lẻ và hoạt động kinh doanh bất động sản thu hút lần lượt số vốn đăng ký 776 triệu USD và 665 triệu USD.
Trong số 93 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, Singapore dẫn đầu với số vốn đầu tư 5,07 tỷ USD, chiếm 41,1% tổng vốn. Thái Lan đứng thứ hai với số vốn đầu tư 1,46 tỷ USD, chiếm 11,8% tổng vốn và Nhật Bản đứng vị trí thứ ba với số vốn đầu tư 1,16 tỷ USD, chiếm 9,4% tổng vốn, tiếp theo là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,…/.
Hạnh Nguyễn
VNDIRECT: Việt Nam đã sẵn sàng trở thành một trung tâm sản xuất thay thế Trung Quốc
Các doanh nghiệp phát triển KCN có quỹ đất lớn vẫn có triển vọng do nhu cầu đất công nghiệp tăng mạnh sau đại dịch Covid-19.
Ảnh minh họa.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có nhiều biến chuyển khả quan trong giai đoạn nửa cuối năm 2019 khiến dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam chậm lại và làm chậm xu hướng chuyển dịch nhà máy khỏi Trung Quốc.
Tuy nhiên, sự bùng phát của dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khiến xu hướng chuyển dịch nhà máy ra khỏi Trung Quốc tái khởi động. Theo đánh giá của CTCP Chứng khoán VNDIRECT, nhu cầu thuê đất tại các khu công nghiệp (KCN) Việt Nam sẽ tăng mạnh sau đại dịch. VNDIRECT cho rằng Việt Nam đã sẵn sàng trở thành một trung tâm sản xuất thay thế nhờ vào vị trí gần Trung Quốc và lực lượng lao động chi phí thấp.
Thực tế, Việt Nam vẫn là vị trí thu hút chuyển dịch công nghiệp từ Trung Quốc nhờ chi phí hoạt động thấp và ưu đãi thuế. So với các quốc gia trong khu vực (Phillippines, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Myanmar) về mức độ thu hút công nghiệp, Việt Nam vẫn là vị trí tiềm năng cho sự chuyển dịch của các công ty nhờ vào giá thuê đất, tiền nhân công, năng lượng và nhà xưởng thấp.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, diện tích đất của các khu công nghiệp (KCN) của Việt Nam đạt 65.900ha tại thời điểm cuối năm 2019, tăng 1.900ha so với cuối năm 2018. Trong tổng số 330 KCN toàn quốc, có 258 KCN đang hoạt động, tăng từ 250 KCN vào cuối năm 2018. Tỷ lệ lấp đầy trung bình trên toàn quốc đạt 74,3% vào cuối năm 2019, tăng 1,3 điểm % so với cuối năm 2018.
Bên cạnh chi phí hoạt động thấp, Việt Nam đã giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ mức 22% xuống mức 20% vào năm 2016 cho tất cả các công ty trong nước và nước ngoài để tăng cường thu hút sản xuất. Các công ty trong các KCN cũng được hưởng nhiều ưu đãi, như miễn/giảm thuế và miễn thị thực. Ưu đãi thuế cho các công ty trong các KCN bao gồm miễn thuế từ hai đến bốn năm, giảm thuế trong ba đến 15 năm và miễn thuế nhập khẩu.
Cùng với đó, các FTA sẽ là nhân tố chính thúc đẩy phát triển bất động sản KCN trong giai đoạn tiếp theo. Ngày 12/2, Nghị viện châu Âu đã phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định bảo vệ đầu tư EU - Việt Nam (EVIPA), nâng tổng số FTA có hiệu lực tính đến tháng 3/2020 lên 12. Thuế xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam đến liên minh châu Âu sẽ được xóa bỏ ngay khi EVFTA có hiệu lực hoặc trong giai đoạn ngắn sau đó (tối đa là 7 năm).
Doanh nghiệp phát triển KCN có quỹ đất lớn sẽ nắm bắt được nhu cầu của làn sóng dịch chuyển nhà máy
Theo JLL, quỹ đất sẵn sàng cho thuê tại các KCN dự kiến sẽ được đưa vào hoạt động trong giai đoạn quý II-III/2020 với khoảng 1.890ha, tương đương 4% so với tổng diện tích đất KCN năm 2019. Quỹ đất mới/mở rộng này chủ yếu tại các tỉnh phía Nam, hầu hết ở Bình Dương, vốn sắp hết nguồn cung. Nguồn cung đất KCN vẫn hạn chế trong giai đoạn 2020-21, do đó các công ty có quỹ đất sẵn có lớn sẽ có cơ hội tăng trưởng trong làn sóng dịch chuyển nhà máy tiếp theo.
Ở miền Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu đang trở thành điểm nóng công nghiệp kể từ khi hệ thống đường cao tốc mới được đẩy mạnh phát triển, kết nối cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải với TP.HCM, Đồng Nai và Bình Dương. Tại miền Bắc, các KCN tại Hải Dương, Bắc Giang sẽ phát triển nhờ vào đường cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn, giúp thời gian di chuyển từ Hà Nội đến biên giới khu vực Lạng Sơn giảm một tiếng so với trước đây.
VNDIRECT cho rằng các doanh nghiệp phát triển KCN vẫn triển vọng do nhu cầu đất công nghiệp tăng mạnh. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp có đặc điểm khác nhau với từng thách thức và cơ hội riêng biệt.
Dựa trên 2 tiêu chí là (1) sở hữu quỹ đất lớn tại các vị trí đắc địa và (2) có danh mục khách hàng lớn mạnh, VNDIRECT đánh giá các doanh nghiệp như SZC, KBC, PHR, VGC và BCM sẽ có lợi thế lớn để nắm bắt cơ hội từ sự chuyển dịch dòng vốn FDI.
THANH HÀ
Standard Chartered dự báo tăng trưởng của Việt Nam đạt 3,3% trong năm 2020 Chiều 23/4, Ngân hàng Standard Chartered công bố Báo cáo Nghiên cứu Toàn cầu - Triển vọng Kinh tế quý 2/2020 với tựa đề "Darkest before the dawn" (tạm dịch là Bóng tối trước bình minh). Báo cáo này đã đưa ra dự báo, nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng chậm lại trong năm 2020 và chỉ đạt 3,3% do ảnh...