An Giang: Kỳ công thuần hóa loài cá chành dục kỳ lạ Thiên Cấm Sơn
Cùng với cua núi, ốc núi, cá chành dục (còn gọi là cá suối) là một trong những món ăn đặc sản mà du khách gần xa không thể bỏ qua khi đến Thiên Cấm Sơn.
Tuy nhiên, những năm gần đây, với sự khai thác ồ ạt để phục vụ du khách, cá chành dục đang dần trở nên khan hiếm. Để bảo tồn nguồn lợi tự nhiên cũng như giữ gìn loài cá đặc hữu của núi Cấm, ông Trần Văn Xe (ngụ ấp Tà Lọt, xã An Hảo, Tịnh Biên, tỉnh An Giang) đã nghĩ cách thuần dưỡng loại cá này.
Núi Cấm là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng với núi non hùng vĩ, phong cảnh hữu tình, khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi. Trên núi có các danh lam thắng cảnh như: chùa Vạn Linh, chùa Phật Lớn, tượng Phật Di Lặc, hồ Thủy Liêm… Dọc theo những lối mòn từ chân lên tới đỉnh núi có nhiều điểm tham quan như: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long…
Câu cá chành dục, thú vui của nhiều người.
Không những thu hút bởi cảnh quan thiên nhiên, núi Cấm còn nổi tiếng với những món ăn mà khi đến bạn phải thưởng thức ít nhất 1 lần. Ngoài món bánh xèo rau rừng trứ danh, cua núi, ốc núi và gần đây là cá chành dục là những món ăn mà du khách không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, những năm gần đây, các loại đặc sản trên, đặc biệt là loại cá suối đang hiếm dần do cách đánh bắt tận diệt của người dân nhưng rất may, có người quyết định thuần dưỡng, nhân giống loại cá này.
Chúng tôi đến thăm gia đình ông Trần Văn Xe để tìm hiểu thêm về loài cá này. Hớp ngụm nước, ông Xe cho biết, cá chành dục có mặt ở vùng núi Cấm từ rất lâu. Trước đây, loại cá này không ai bắt, chỉ có một vài hộ câu lên để cải thiện bữa ăn hàng ngày. Tuy nhiên, từ khi cua núi, ốc núi trở thành những món đặc sản thì cá chành dục bắt đầu “nổi tiếng theo”.
Video đang HOT
Cá chành dục vùng Thiên Cấm Sơn.
Nếu trước đây, người dân sử dụng cần câu để câu cá, hiện nay đã chuyển sang sử dụng điện mới có đủ số lượng cung cấp cho du khách gần xa. “Cách khai thác theo kiểu tận diệt này khiến số lượng cá chành dục ngày càng ít đi. Thấy vậy, tôi nảy ra ý định thuần dưỡng loại cá này để bảo tồn, giữ gìn nguồn lợi tự nhiên”- ông Xe thông tin.
Theo ông Xe, cá chành dục giống như cá lóc nhưng có kích thước nhỏ hơn rất nhiều, con to nhất chỉ bằng nửa cổ tay người trưởng thành. Cá có đặc điểm là vây lưng, vây đuôi có viền ngoài màu hồng hoặc vàng.
Cá có màu xám đen ở mặt lưng và nhạt gần xuống bụng. Khi lớn, vây cá có màu xanh, được nhiều người bắt về để làm cá cảnh. Hiện nay, loại cá này chưa được nuôi phổ biến, chủ yếu khai thác ngoài tự nhiên.
Ông Xe chia sẻ: “Cá chành dục sống chủ yếu ở các con suối nên nhiều người gọi nó là cá suối. Loại cá này thường sống và đi kiếm ăn ở các hang, hốc, kẹt đá, nơi có luồng nước chảy. Khi đẻ, trứng nở ra cá ròng ròng được cá mẹ dẫn đi kiếm ăn từng bầy. Đây cũng là thời điểm dễ săn bắt cá bố mẹ nhất”.
Câu trúng 1 con cá chành dục vùng Thiên Cấm Sơn.
Khi được hỏi về giá trị kinh tế của loài cá này, ông Xe cho biết, cá chành dục ở ngoài thị trường có giá thấp nhất cũng khoảng 100.000 đồng/kg. Loại cá này cho thịt thơm, ngon và ngọt đậm giống như thịt cá lóc. Cá được chế biến thành nhiều món ăn, nhưng hấp dẫn nhất là món kho tiêu, nướng trui chấm mắm me hoặc chiên giòn.
Cũng nhờ loại cá này mà thời gian qua, gia đình ông Xe được nhiều nhà hàng, công ty du lịch giới thiệu để tham quan, trải nghiệm cảm giác câu cá suối cùng với tham quan vườn cây ăn trái của gia đình. Nhờ vậy, gia đình ông Xe có được nguồn thu nhập đáng kể, cuộc sống cải thiện hơn trước.
“Du khách, đặc biệt là khách đến từ TP. Hồ Chí Minh rất thích cảm giác được câu từng con cá và chế biến, thưởng thức tại chỗ. Nhiều người còn mua về nhà để làm cá cảnh hay đem về để làm quà”.
Đối với cư dân khu vực núi Cấm, cá chành dục được cho là nguồn thực phẩm mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho họ, giúp những gia đình nghèo khó trên núi có điều kiện cải thiện bữa ăn. Còn đối với ông Trần Văn Xe, việc thuần dưỡng cá chành dục không phải để làm kinh tế, mà mục đích chính là bảo tồn, giữ gìn loại cá đặc hữu của địa phương.
Theo Đức Toàn (Báo An Giang)
Hiệu quả từ các hồ thủy lợi ở An Giang
Những năm gần đây, các hồ thủy lợi thuộc hai huyện vùng núi Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang) trở thành nguồn cung cấp nước quanh năm cho người dân. Bà con không còn lo thiếu nước tưới cho cây trồng, hoa màu hay nước sinh hoạt như trước đây. ây là hiệu quả của chương trình đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi vùng cao thích ứng với biến đổi khí hậu (BKH) nhằm phục vụ tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Nhờ có các hồ thủy lợi, nông dân vùng núi Tri Tôn đã chủ động được nguồn nước tưới phục vụ nông nghiệp.
Chủ động nguồn nước tưới tiêu, sinh hoạt
Tịnh Biên và Tri Tôn trong vùng Bảy Núi có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Tuy nhiên, do vùng bán sơn địa, nhiều đồi, núi cao cho nên việc sản xuất của người dân gặp nhiều khó khăn về nước tưới. ể cải thiện cuộc sống người dân, UBND tỉnh An Giang đã xây dựng và phê duyệt quy hoạch chi tiết thủy lợi vùng Bảy Núi tại Quyết định số 539/Q-UBND với mục tiêu đánh giá tổng thể nguồn tài nguyên nước mặt, nước ngầm... để ổn định sản xuất, nhằm phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số trong điều kiện BKH toàn cầu.
Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, hiện toàn huyện Tri Tôn có bốn hồ chứa nước đã đưa vào hoạt động, trong đó có ba hồ chứa nước lớn do Trung ương đầu tư xây dựng trong chương trình ứng phó với BKH gồm: hồ Soài So và hồ Soài Check (xã Núi Tô), hồ Ô Thum (xã Ô Lâm), hồ Ô Tà Sóc (xã Lương Phi). Các hồ thủy lợi nhân tạo này có khả năng phục vụ tưới tiêu cho khoảng 1.000 ha đất nông nghiệp. Còn ở huyện Tịnh Biên có hai hồ lớn là hồ Thủy Liêm và hồ Thanh Long trên núi Cấm, xã An Hảo có tác dụng cung cấp nước sinh hoạt, phòng, chống cháy rừng. ến nay các hồ chứa nước trên vùng cao giúp nông dân chuyển từ sản xuất một vụ năng suất thấp sang sản xuất hai đến ba vụ /năm, cho năng suất cao hơn. Nhờ vậy, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer từng bước được nâng cao, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định cuộc sống.
Theo UBND huyện Tri Tôn, hồ Soài Check với dung tích chứa 293.000 m3 sau khi đưa vào vận hành vào tháng 6-2016 trở thành điểm cung cấp nước cho 140 ha đất nông nghiệp sau hồ của đồng bào xã Núi Tô. Nhờ nguồn nước từ hồ Soài Check, bà con Khmer trong vùng canh tác ít nhất ba vụ/năm gồm hai vụ lúa và một vụ màu, đồng thời còn phát triển được cây ăn quả, cây lâu năm. Ông Chau Ki, nông dân ở xã Núi Tô cho biết, đất núi vào mùa khô thiếu nước tưới cho nên như bao nông dân khác, ông phải vất vả tìm cách trữ nước để tưới. Từ khi hồ Soài Chek đưa vào sử dụng có nguồn nước quanh năm, ông chủ động được nguồn nước tưới nhờ đó mà năng suất cây trồng tăng cao, kinh tế gia đình cũng được cải thiện đáng kể.
Hồ Ô Tà Sóc có dung tích 620.000 m3, phục vụ tưới tiêu cho 150 ha ở xã Lương Phi, huyện Tri Tôn đã giúp người dân nơi đây an tâm sản xuất. Hồ Ô Thum chứa 270.000 m3 nước, phục vụ tưới tiêu cho 200 ha, là niềm vui của đồng bào xã Ô Lâm, nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống nhất huyện Tri Tôn. Anh Chau Út, làm nghề nông ở ấp Phước Bình, xã Ô Lâm chia sẻ: "Những năm trước, bà con làm nông nghiệp cực lắm bởi vào mùa khô thiếu nước tưới nên có làm cũng không hiệu quả. Từ khi có hồ chứa nước Ô Thum, nguồn nước tích trữ từ hồ đã cung cấp nước tưới quanh năm, việc trồng hoa màu, cây ăn trái, cây lúa bớt khó khăn hơn". Hiện có hơn 100 hộ dân tộc Khmer nghèo được hưởng lợi trực tiếp từ hồ Ô Thum.
Thích ứng với biến đổi khí hậu
Theo dự báo, trong tương lai, BKH sẽ làm môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long thay đổi, hạn hán xuất hiện nhiều hơn. Trong đó Tri Tôn, Tịnh Biên sẽ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất. ể ứng phó với vấn đề BKH, tỉnh An Giang đã thực hiện đầu tư dự án "Xây dựng hệ thống thủy lợi vùng cao thích ứng với BKH nhằm phục vụ tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho đồng bào vùng Bảy Núi". Theo đó, từ năm 2018 đến năm 2020, tỉnh xây dựng thêm năm hồ thủy lợi và ba trạm bơm điện tại hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên với tổng diện tích 134,22 ha có tổng kinh phí hơn 360 tỷ đồng. Công trình bảo đảm mức tưới là 75%; mức bảo đảm tiêu là 90%. Mục đích các công trình trên nhằm tăng cường khả năng tích trữ và điều tiết nước, chủ động tưới tiêu, phục vụ sản xuất, sinh hoạt và phòng cháy, chữa cháy rừng vào mùa khô, cắt lũ núi trong mùa mưa; thực hiện dự án đa mục tiêu, phát triển kinh tế - xã hội và ứng phó với BKH, xây dựng, nâng cấp các trạm bơm tưới, hệ thống đê bao ngăn lũ bảo vệ diện tích đất nông nghiệp, gắn với phát triển giao thông nông thôn nhằm phát huy hiệu quả đồng bộ của dự án.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hệ thống thủy lợi vùng cao sẽ tăng cường việc tích trữ và điều tiết nước ngọt, chủ động tưới tiêu thông qua việc đầu tư xây dựng, nâng cấp các hồ chứa. Việc giữ được nguồn nước sẽ cung cấp nước sinh hoạt, phục vụ phòng, chống cháy rừng hơn 1.200 ha; sản xuất nông nghiệp trong mùa khô và điều tiết lũ trong mùa mưa thuận lợi hơn. Việc đầu tư hệ thống thủy lợi vùng cao rất tốn kém nhưng về lâu dài đáp ứng nhu cầu nước tưới, nước sinh hoạt cho 80 nghìn hộ dân vùng núi. Khi chủ động nguồn nước, nông dân an tâm sản xuất, từ đó, sẽ nâng cao thu nhập. Theo tính toán, khi hoàn thành, hệ thống thủy lợi vùng cao sẽ chủ động cung cấp nước tưới tiêu cho hơn 4.500 ha cây trồng các loại và cho chăn nuôi thuộc các xã trong vùng núi đồi.
Việc hoàn thiện các công trình thủy lợi vùng núi còn giúp tỉnh chủ động kiểm soát, bảo đảm cung cấp đủ nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp, qua đó góp phần phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn cũng như sắp xếp, bố trí lại dân cư nhằm ứng phó BKH trong tương lai.
BÀI VÀ ẢNH: THANH DŨNG
Theo NDĐT
Trong 4 tượng Phật khổng lồ ở miền Tây, tỉnh An Giang có mấy tượng? Thời gian qua, nhiều tượng Phật cao lớn, uy nghiêm được xây dựng tại các chùa ở miền Tây không chỉ có ý nghĩa tôn giáo mà còn tạo thành những điểm nhấn độc đáo hấp dẫn du khách gần xa. Tượng Phật nằm kỷ lục Nói đến các tượng Phật khổng lồ ở miền Tây đầu tiên phải kể đến tượng Phật...