An Giang gỡ khó cho doanh nghiệp tuyển dụng lao động
Sau giai đoạn căng thẳng của dịch bệnh, cùng với sự phục hồi sản xuất – kinh doanh, nhiều doanh nghiệp (DN) trong tỉnh An Giang đã tăng cường tuyển dụng nguồn lao động cho mục tiêu mở rộng quy mô.
Tuy nhiên, song song với việc thu hút nguồn lao động, ngành chức năng còn chỉ ra nhiều vấn đề DN nên cải thiện để giữ chân người lao động (NLĐ) tốt hơn.
Nhu cầu tuyển dụng lớn
Qua khảo sát của ngành chức năng, toàn tỉnh có khoảng 20 DN đang cần tuyển dụng trên 15.500 lao động phổ thông, tập trung ở các lĩnh vực: May mặc, thủy sản, da giày, cơ khí chế tạo máy… Hiện nay, các DN chỉ mới tuyển dụng được hơn 2.400 lao động. Tại Khu công nghiệp Bình Hòa (huyện Châu Thành), Công ty TNHH An Giang Samho có nhu cầu tuyển dụng 4.000 lao động, trong đó cần 3.600 lao động nữ. Hiện chỉ mới tuyển dụng được 600 lao động so nhu cầu, dù đã thông báo chế độ thưởng cho công nhân mới từ 800.000 đến 2 triệu đồng và duy trì trong 7 tháng.
Bà Dương Thị Mỹ Trang (Phòng Nhân sự, Công ty TNHH may mặc Lu An) cho biết, công ty đang có hơn 1.900 lao động làm việc và có nhu cầu tuyển dụng mới 2.000 lao động. Tuy nhiên, đến nay, chỉ mới tuyển dụng được chưa đến 20%. Ngoài 2 DN này, trong Khu công nghiệp Bình Hòa và Khu công nghiệp Bình Long (huyện Châu Phú) còn có 8 công ty đang tuyển dụng lao động số lượng lớn.
Các sở, ngành làm việc với doanh nghiệp về tình hình lao động
Đi kèm thông báo tuyển dụng, các DN còn thông báo chế độ đãi ngộ dành cho lao động mới. Điển hình như Công ty Cổ phần chế biến xuất nhập khẩu thủy sản Hòa Phát (huyện Châu Phú) sẽ hỗ trợ cho NLĐ có tay nghề từ 1-1,5 triệu đồng. Công ty Cổ phần Nam Việt cho hay, những lao động chưa có tay nghề sẽ được DN hỗ trợ học việc 18.000 đồng/giờ. Đồng thời, trong 3 tháng liên tục sẽ áp dụng phụ cấp cho công nhân mới từ 800.000 đồng/tháng, phụ cấp đủ công từ 700.000 đến 1 triệu đồng/tháng (tùy bộ phận). Công ty Cổ phần đầu tư Thái Bình (chi nhánh 5) chuyên sản xuất mũ và giày đang tuyển khoảng 1.500 lao động phổ thông, công khai các chế độ NLĐ được thụ hưởng khi đến làm việc, như: Lương chuyên cần, nhà ở, hỗ trợ NLĐ nuôi con nhỏ, thưởng hoàn thành sản lượng, các quyền lợi đối với lao động nữ đúng quy định bên cạnh các chế độ bảo hiểm đầy đủ.
DN cho biết, tuyển dụng lâu nay đã khó, nay giữ được chân NLĐ càng khó hơn. Hầu hết công đoàn các huyện cho rằng, có sự biến động trong lao động là do DN chưa thực hiện tốt chính sách dẫn đến tình trạng “nhảy việc” thường xảy ra. Mặt khác, môi trường ứng xử ở một số DN còn phức tạp, chưa được hài hòa nên nảy sinh những bức xúc trong NLĐ dẫn đến lao động nghỉ việc. Hiện nay, ngoài số lao động trong độ tuổi ở vùng nông thôn, chủ yếu gắn bó với việc làm tự do, các DN còn quan tâm thu hút những lao động ngoài tỉnh trở về. Vì đây là những lao động có tay nghề, tác phong làm việc và ý thức tổ chức kỷ luật khá tốt, năng suất lao động cao…
Video đang HOT
NLĐ cho rằng, chính sách của các công ty chưa đủ thu hút so với những nơi họ từng gắn bó, nhất là các DN lớn ở khu công nghiệp ngoài tỉnh. “Ngoài mức lương cao hơn, công nhân còn được hưởng các quyền lợi, như: Đi du lịch, phụ cấp ngoài giờ, tăng ca, những chế độ tương tự hỗ trợ ăn uống, chỗ ở, đi lại… công ty trong tỉnh đều thấp hơn. Nhu cầu đời sống ngày càng tăng, công nhân cần những chế độ đảm bảo cho cuộc sống, trang trải cho gia đình và nếu có thể tích lũy càng tốt. Lao động ở lại làm việc trong tỉnh đa số vì có nhu cầu muốn ở gần gia đình, tiết kiệm khoản nào hay khoản đó. Vì vậy, nhiều người chọn đi làm xa vất vả nhưng tích góp được chút ít vẫn hơn là làm vừa đủ” – chị Hồ Thị Kiều Loan (công nhân ở huyện Châu Thành, tỉnh An Giang) chia sẻ.
Để nắm bắt tình hình và nhu cầu tuyển dụng lao động của các DN trên địa bàn tỉnh hiện nay, các cơ quan: Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh An Giang, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh đã có buổi làm việc với đại diện các DN. Sau khi nghe DN trình bày khó khăn, nguyện vọng được hỗ trợ từ ngành chức năng, cơ quan cấp tỉnh đã đưa ra giải pháp cùng những đề xuất cần thiết đối với DN trong thời gian tới. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đề nghị, với những thông tin tuyển dụng, các DN cần đẩy mạnh phối hợp kết nối với các địa phương, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh để tìm kiếm nguồn lao động có nhu cầu tìm việc, đặc biệt là những lao động yếu thế.
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh và LĐLĐ huyện, thị xã, thành phố cùng hỗ trợ thông tin tuyên truyền, tăng cường phiên giao dịch việc làm lưu động ở các khu công nghiệp, địa phương giúp NLĐ và DN kết nối dễ dàng hơn… Với vai trò là tổ chức đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích cho NLĐ, LĐLĐ tỉnh yêu cầu các cấp công đoàn, nhất là công đoàn cơ sở cần chủ động tham mưu cho chủ DN thực hiện tốt các chính sách cho NLĐ. Là người sử dụng lao động, để duy trì nguồn lao động lâu dài, DN cần xây dựng kế hoạch cho nhu cầu tuyển dụng gửi đến tổ chức công đoàn các cấp để được hỗ trợ, tuyên truyền, vận động NLĐ.
Bên cạnh đó, DN cần thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, công bố cụ thể các chính sách, đãi ngộ cho NLĐ và thực hiện đúng với cam kết. Ngoài đăng thông tin tuyển dụng, DN có thể đề nghị sở, ngành cấp tỉnh và huyện hỗ trợ đào tạo nghề nguồn lao động theo yêu cầu. Đặc biệt, khi đã tuyển dụng được lao động, DN cần phối hợp với các cơ quan liên quan để xử lý các vấn đề trong quan hệ lao động, đặc biệt là các chế độ, như: Bữa ăn ca, chăm lo cho lao động nữ, phúc lợi đi kèm các chế độ đã thực hiện theo quy định… đảm bảo chăm lo tốt đời sống vật chất lẫn tinh thần cho NLĐ.
Đề xuất nới trần giờ làm thêm: Sẽ khó cho doanh nghiệp nếu chậm đưa ra quyết định
Doanh nghiệp rất cần tăng giờ làm thêm để tranh thủ phục hồi sản xuất, nhưng nếu chậm được ban hành, chính sách sẽ không còn nhiều ý nghĩa hỗ trợ.
Rất nhiều doanh nghiệp đang có nhu cầu tăng giờ làm thêm để kịp đáp ứng đơn hàng. Ảnh: Đ.T
Tại sao doanh nghiệp đề xuất tăng giờ làm thêm
Dự kiến vào ngày 14/3, trong phiên họp thứ 9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét Dự thảo Nghị quyết về thời giờ làm thêm trong một tháng và trong một năm của người lao động, do Chính phủ trình theo thủ tục rút gọn.
Doanh nghiệp, nhất là nhóm sản xuất, đã chờ đợi phương án tăng giờ làm thêm này suốt từ tháng 9/2021, khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 105/2021/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19.
Tại nghị quyết này, Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục rút gọn trong tháng 9/2021 về việc cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã thỏa thuận với người lao động điều chỉnh tăng thời gian làm thêm giờ/tháng phù hợp với diễn biến dịch Covid-19 với điều kiện đảm bảo tổng số giờ làm thêm không quá 300 giờ/năm. Khi đó, đợt dịch lần thứ tư càn quét khắp các tỉnh phía Nam, làm ngưng trệ đột ngột hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa gần 4 tháng, người lao động không có việc, đổ xô về quê...
Nhắc lại thời điểm đó, bà Trần Thị Lan Anh, Tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã nhắc lại tình huống căng thẳng khi hàng loạt doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong các ngành da giày, dệt may, thủy sản... có thể bị hủy đơn hàng, thậm chí bị mất khách hàng do không đảm bảo tiến độ sản xuất và chi phí hoạt động tăng đột biến.
"Việc điều chỉnh tăng giờ làm thêm trong tháng và trong năm nhằm giúp doanh nghiệp phần nào bù đắp được năng suất, sản lượng thiếu hụt trong thời gian dịch bệnh, kịp tiến độ đơn hàng, nhất là đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu", bà Lan Anh lý giải cho đề xuất mà VCCI và nhiều hiệp hội doanh nghiệp đã gửi tới Chính phủ vào tháng 9/2021.
Đáng nói, đây cũng chính là nội dung mà bà Lan Anh chia sẻ khi được hỏi về đề xuất nới trần khung giờ làm thêm trong một tháng (từ 40 giờ lên 72 giờ/tháng) và áp dụng số giờ làm thêm không quá 300 giờ trong một năm đối với tất cả các nhóm ngành mà Chính phủ đã có Dự thảo trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào giữa tháng 2/2022.
Gần 6 tháng kể từ thời điểm tháng 9/2021, dịch bệnh dù đã chuyển sang trạng thái hoàn toàn khác, với chiến lược hướng tới không coi Covid-19 là một đại dịch, nhưng khó khăn do tác động của dịch bệnh với doanh nghiệp vẫn rất lớn. Đang có tình trạng doanh nghiệp có 70-80% người lao động là F0, chưa kể số lao động thuộc diện F1 buộc phải cách ly, nên số lao động thực tế là rất thấp. Cộng thêm áp lực từ việc lao động chưa trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết Âm lịch và nỗi ám ảnh dịch bệnh, không ít doanh nghiệp buộc phải giãn ca sản xuất hay tạm dừng dây chuyền do thiếu hụt lao động.
"Chính vì vậy, đề xuất điều chỉnh thời giờ làm thêm là một trong những giải pháp hết sức cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi này. Chúng tôi dự đoán, các ngành sẽ cần 1-2 năm để có thể dần hồi phục", bà Lan Anh nhấn mạnh.
Giải pháp căn cơ hay tạm thời
Mặc dù đeo đuổi đề xuất tăng giờ làm thêm khá lâu, nhưng không doanh nghiệp nào coi đây là giải pháp căn cơ, tối ưu trong thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nhiều cuộc trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước về việc này, các doanh nghiệp thừa nhận, chi phí làm thêm rất cao, từ gấp rưỡi đến gấp 3 lần chi phí trong giờ làm việc bình thường và nguy cơ tai nạn lao động tăng cao là những lý do khiến doanh nghiệp và người lao động cân nhắc trước khi đưa ra quyết định việc làm thêm giờ. Tập đoàn Thủy sản Minh Phú ước tính, sản xuất các sản phẩm trong giờ làm thêm khiến giá thành sản phẩm tăng 20%, nên làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đây cũng là lý do nhiều doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp lớn như Minh Phú, Gỗ Trường Thành, Đông Tâm... dành 2 năm Covid-19 để đầu tư đổi mới công nghệ, giảm sự phụ thuộc vào lao động. Nhiều doanh nghiệp cho biết, họ đã trở lại quy mô sản xuất như trước dịch chỉ với 2/3 số lao động, trong đó phần lớn là lao động có tay nghề.
"Nếu không cần, doanh nghiệp sẽ không sử dụng đến số giờ làm thêm dù được phép, vì chi phí đội lên, trong khi giá bán không thể tăng. Lý do doanh nghiệp buộc phải sử dụng làm thêm là yếu tố thời vụ trong sản xuất của nhiều lĩnh vực, như vụ thu hoạch nông sản, thủy sản; yếu tố thời trang như với dệt may, da giày...", ông Nguyễn Hoài Nam, Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (VASEP) nói.
Thêm nữa, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu không chỉ phải cạnh tranh với các đối tác trong nước, nước ngoài để có đơn hàng, mà còn phải chịu áp lực giám sát tính tuân thủ trong các hoạt động của doanh nghiệp từ phía đối tác mua hàng. Chỉ cần một thông tin, dấu hiệu nào về việc doanh nghiệp vi phạm quy định, pháp luật, doanh nghiệp sẽ đối mặt với nguy cơ mất đơn hàng. Trước khi Bộ luật Lao động hiện hành cho phép các doanh nghiệp dệt may, da giày, chế biến thủy sản được tăng giờ làm thêm lên 300 giờ/năm, thay vì 200 giờ/năm như luật cũ, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã từng nhắc tới những cảnh báo từ các đối tác mua hàng trong ngành dệt may về tỷ lệ 82% doanh nghiệp dệt may vi phạm quy định về giờ làm thêm, dù vào những tháng ít việc, thời gian làm việc của người lao động không đến 8 giờ, doanh nghiệp vẫn phải đủ lương...
Tình thế này rất có thể sẽ lặp lại nếu như các doanh nghiệp có đơn hàng, cần tập trung nguồn lực, nhân lực hoàn tất sau những đợt giãn cách hoặc tạm dừng do thiếu lao động, nhưng người lao động không được phép làm thêm quá 40 giờ/tháng.
Băn khoăn về sự chậm trễ
Lúc này, điểm khác so với những cuộc thảo luận, tranh luận về phương án tăng giờ làm thêm hay không trước đó là, không phải chỉ các doanh nghiệp có đặc thù kinh doanh theo thời vụ mới cần đến giờ làm thêm.
Bà Nguyễn Thị Diễm Hằng. Chủ tịch HĐQT Công ty Vina Trifood kể, Công ty bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19 trong hơn 2 năm qua. "Doanh nghiệp mất cân đối cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, nếu kéo dài tình trạng đứt gãy, sẽ nguy cơ mất khách hàng truyền thống. Đây là thời điểm chúng tôi tăng tốc thực hiện các đơn hàng, bù đắp cho quãng thời gian trước", bà Hằng dự kiến.
Đặc biệt, Covid-19 cũng đang khiến nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa như Vina Trifood phải chậm lại kế hoạch đầu tư đổi mới công nghệ để dành nguồn lực phục hồi tài chính, sản xuất. Kế hoạch tăng giờ làm thêm cũng đang trong dự tính.
Tuy vậy, bà Hằng cho biết, Công ty sẽ phải trao đổi với người lao động, tính toán chế độ đãi ngộ phù hợp, chưa kể các khoản chi phí để phòng chống dịch bệnh. Bởi vậy, với Vina Trifood, việc này chỉ là giải pháp cấp bách tại thời điểm này để tăng hiệu quả sản xuất.
"Đây cũng là cách để người lao động tăng thu nhập, giải quyết khó khăn hiện tại trong cuộc sống. Nhưng chúng tôi sẽ chỉ thực hiện trên cơ sở đảm bảo sức khỏe và điều kiện làm việc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người lao động trên tinh thần tự nguyện, đôi bên cùng có lợi", bà Hằng thẳng thắn.
Nhưng thực trạng này cũng có nghĩa là, nếu các quyết định về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chậm trễ, thì một mặt, kế hoạch phục hồi của không ít doanh nghiệp bị ảnh hưởng, nhưng mặt khác, hiệu quả của chính các giải pháp cũng không còn như các bản đánh giá tác động mà Chính phủ đưa ra.
Tại sao diện tích những loại cây này ở Đồng Nai đột ngột sụt giảm? Nông dân Đồng Nai đã chuyển đổi cây trồng khiến diện tích cây lương thực và cây lâu năm giảm dần so với cùng kỳ năm trước. Theo Cục Thống kê Đồng Nai, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm của tỉnh năm 2021 đạt 144.783 ha, giảm 3.743 ha so với cùng kỳ. Diện tích trồng lúa tại Đồng Nai giảm...