Algeria: Miền đất hứa cho doanh nghiệp Việt Nam
Năng lực sản xuất hạn chế, nhu cầu tiêu dùng lớn, Algeria là thị trường hấp dẫn cho doanh nghiệp Việt Nam trên cả phương diện xuất khẩu và hợp tác đầu tư sản xuất.
Đa dạng nhu cầu
Tại Phiên tư vấn xuất khẩu sang thị trường Algeria do Cục Xúc tiến thương mại ( Bộ Công Thương) tổ chức ngày 19/4, ông Hoàng Đức Nhuận – Tham tán Thương mại Việt Nam tại Algeria, cho hay: Dù chủ trương đa dạng hoá nền kinh tế nhưng Algeria đang phải nhập khẩu hầu hết các mặt hàng, trong đó có 50% lương thực, thực phẩm.
3 tháng đầu năm 2022, Việt Nam xuất khẩu 30,95 triệu USD giá trị hàng hoá sang Algeria. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm: Cà phê, hạt tiêu, thuỷ sản, kim loại thường, sản phẩm hoá chất… “Trong quan hệ thương mại với Algeria, Việt Nam gần như xuất siêu tuyệt đối”, ông Hoàng Đức Nhuận thông tin.
Cũng theo Tham tán Thương mại Việt Nam tại Algeria, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của Algeria rất đa dạng, trong đó có nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Cà phê là một điển hình, Algeria phải nhập khẩu 100% cà phê với khoảng 130.000 tấn, trị giá 30 triệu USD để phục vụ tiêu dùng trong nước. Cà phê thô là mặt hàng xuất khẩu số 1 của Việt Nam sang Algeria, chiếm trên 50% thị phần.
Chè xanh được đánh giá là mặt hàng tiềm năng khi nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này ngày một tăng, nhất là trong phân khúc người tiêu dùng trẻ tuổi. Bên cạnh chè truyền thống uống cùng với bạc hà, trà túi lọc cũng ngày một được ưa chuộng.
Với mặt hàng gạo, mỗi năm Algeria nhập khẩu khoảng 100.000 tấn, chiếm trên 1% trong cơ cấu tiêu dùng lương thực nước này. Gạo nhập khẩu là loại gạo trắng, hạt dài 5% tấm, gạo đồ và basmati. Gạo nhập khẩu chủ yếu phục vụ người châu Á sinh sống tại Algeria. Gạo cũng là mặt hàng xuất khẩu thường xuyên của Việt Nam sang Algeria.
Phiên tư vấn xuất khẩu sang thị trường Algeria cung cấp nhiều thông tin cho doanh nghiệp
Bên cạnh lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng cũng là những sản phẩm tiềm năng. Trong đó, mỗi năm Algeria tiêu thụ khoảng 90 triệu đôi giày, sản xuất trong nước chỉ đạt 1 triệu đôi. Nhập khẩu giày dép của Algeria tới 95% nhu cầu, trị giá 1,13 tỷ USD/năm. Năm 2020 Việt Nam đã xuất khẩu 817.000 USD giá trị giày dép vào Algeria, chủ yếu là hàng made in Việt Nam sản xuất cho các thương hiệu lớn.
Sản phẩm sắt thép, mỗi năm Algeria nhập khẩu 2,5 tỷ USD. Từ nhiều năm nay, Việt Nam luôn duy trì kim ngạch xuất khẩu nhóm này ở mức cao, năm 2020 đạt 12,37 triệu USD, năm 2021 đạt 8,6 triệu USD. Nhu cầu nhập khẩu sắt thép của Algeria được dự báo tăng trưởng cao trong thời gian tới do nước này đang triển khai nhiều dự án nhà ở, đường xá…
Ngoài những mặt hàng trên, theo ông Hoàng Đức Nhuận còn có một số mặt hàng Algeria có nhu cầu cao, doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng xuất khẩu: Sản phẩm hoá chất, nguyên liệu ngành bao bì, gỗ và đồ gỗ, linh kiện, phụ tùng ô tô, đồ gia dụng…
Khuyến khích hợp tác sản xuất
Mặc dù có nhu cầu nhập khẩu cao với nhiều mặt hàng nhưng ông Hoàng Đức Nhuận, cho biết: Algeria khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài nói chung, doanh nghiệp Việt Nam nói riêng hợp tác đầu tư sản xuất tại quốc gia này để cải thiện năng lực sản xuất nội địa, đa dạng hoá nền kinh tế tránh phụ thuộc vào nguồn thu từ dầu lửa.
Minh chứng dễ nhận thấy, thuế nhập khẩu hàng hoá, nhất là với hàng không phải nguyên liệu của Algeria cao “ngất ngưởng”. Ví dụ, thuế nhập khẩu cà phê là 63%, chè xanh và chè đen 53%, gia vị 83%, hạt điều 83%, giày dép 53%, sắt thép 53%. Algeria cũng chưa phải là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, do vậy hàng rào thuế quan vẫn rất cao, mang tính bảo hộ rõ rệt, nhiều mặt hàng phải chịu thế tiêu thụ nội địa 30% và thuế phòng vệ bổ sung với tỷ suất từ 30-200%.
Video đang HOT
Mặt khác, chính sách thu hút đầu tư của Algeria đã thay đổi đáng kể. Tháng 6/2020 Chính phủ nước này đã quyết định bỏ quy định 51/49%, trừ nhập khẩu hàng về bán lại nguyên trạng và kinh doanh sản phẩm chiến lược. Luật Tài chính bổ sung năm 2020 cũng loại bỏ quyền ưu tiên Nhà nước Algeria được mua trong trường hợp đối tác nước ngoài nhượng lại cổ phần.
“Hiệp định Thương mại tự do lục địa châu Phi đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, doanh nghiệp Việt Nam cần tính đến đầu tư tại các thị trường cửa ngõ khu vực châu Phi để hưởng ưu đãi xuất xứ, sử dụng nhân công, nguyên liệu tại chỗ”, ông Hoàng Đức Nhuận lưu ý.
Việc hợp tác đầu tư tại Algeria là việc nên làm nhưng cần thời gian và cả những doanh nghiệp đủ năng lực. Trước mắt, để khai thác thị trường này, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Algeri lưu ý doanh nghiệp hữu trong nước: Trong thư chào hàng, giới thiệu, doanh nghiệp nên viết dưới dạng văn bản có dấu với đầy đủ thông tin địa chỉ liên hệ kèm theo catalogue; nên đưa ra mức giá sản phẩm phù hợp bởi thuế nhập khẩu tại Algeria khá cao.
Bao bì cần đầy đủ thông tin và được ghi bằng tiếng Ả rập và một ngôn ngữ khác (tiếng Pháp hoặc tiếng Anh); tuân thủ thủ tục xuất nhập khẩu; tìm hiểu thẩm tra đối tác; nên thanh toán theo phương thức L/C không huỷ ngang, có xác nhận của ngân hàng uy tín tại châu Âu, châu Mỹ hoặc nhờ thu chứng từ qua ngân hàng, trong đó yêu cầu đặt cọc ít nhất 25% giá trị tiền hàng và không chấp nhận phương thức trả chậm.
“Doanh nghiệp trong nước cũng cần giữ chữ tín với đối tác, tránh bị đưa vào danh sách đen và ảnh hưởng tới cả cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Có phản hồi khi đối tác hỏi và duy trì cung ứng hàng liên tục, ổn định về chất lượng”, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Algeria chia sẻ.
Thương hiệu quốc gia Việt Nam liên tục gia tăng về giá trị và thứ hạng
Ngày Thương hiệu Việt Nam 20/4 với chủ đề "Nâng tầm vị thế-chắp cánh bay xa" diễn trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, tình hình chính trị bất ổn đã tác động tiêu cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế- xã hội và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cộng đồng doanh nghiệp vẫn vững vàng vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi kinh tế đất nước, qua đó nâng cao hình ảnh quốc gia Việt Nam trên trường quốc tế, ghi tên Việt Nam vào nhóm quốc gia có thương hiệu mạnh.
Xung quanh chủ đề này, phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) nhằm định hướng tới độc giả, góp phần lan toả và cổ vũ doanh nghiệp trong việc đổi mới, sáng tạo và phát triển bền vững.
Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương. Ảnh: Thành Chung/TTXVN
Thương hiệu của sản phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp và thương hiệu quốc gia có mối quan hệ rất chặt chẽ và mang tính tác động qua lại, ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau. Với vai trò Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại - Trưởng ban Thư ký chương trình Thương hiệu quốc gia, xin ông chia sẻ những đóng góp của doanh nghiệp để góp phần vào sự thành công thương hiệu quốc gia?
Những năm qua, Thương hiệu quốc gia Việt Nam liên tục được gia tăng về giá trị và thứ hạng trên trường quốc tế, được nhiều tổ chức quốc tế uy tín ghi nhận.
Để đạt được thành công đó, ngoài yếu tố về kinh tế vĩ mô, chính trị, văn hóa, xã hội...còn có vai trò và sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp.
Bởi giá trị thương hiệu và sự thành công trong xây dựng, quản trị phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp top đầu là những biến số đầu vào trọng yếu trong quá trình tính toán, thống kê giá trị thương hiệu quốc gia của các tổ chức quốc tế.
Nhờ từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam liên tục gia tăng mạnh mẽ, cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam trong những năm qua.
Điều này giúp thương hiệu hàng hóa Việt Nam được người tiêu dùng thế giới biết đến và công nhận rộng dãi hơn, ghi thêm điểm cộng cho giá trị Thương hiệu quốc gia Việt Nam hàng năm.
Nếu như năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ ở mức 84,7 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu là 39,8 tỷ USD và nhập khẩu là 44,9 tỷ USD, thì đến năm 2021 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng gần 800%, lên 668,5 tỷ USD; xuất khẩu đạt 336,3 tỷ USD và nhập khẩu đạt 332,2 tỷ USD.
Với kết quả đó, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã ghi nhận Việt Nam hiện đang đứng vị trí 20 trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới.
Ngoài ra, cùng với các chính sách vĩ mô của Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp đã nỗ lực hưởng ứng và góp phần thay đổi tích cực cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu.
Từ những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, thủy sản, hay những sản phẩm hàng hóa là tài nguyên khoáng sản như than đá, dầu thô... sang các nhóm hàng có giá trị gia tăng cao, công nghệ cao như điện thoại, máy vi tính, máy móc...
Năm 2016, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 80,3%, đến năm 2020 là 85,2% và dự kiến năm 2025 sẽ tăng 90%. Hơn nữa, nhờ chú trọng đầu tư cho xây dựng, quản trị, phát triển thương hiệu nhiều doanh nghiệp Việt Nam được các tổ chức quốc tế uy tín xếp hạng trong Top các doanh nghiệp cùng ngành, lĩnh vực trên toàn cầu, góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia.
Đơn cử như Viettel là doanh nghiệp Việt duy nhất lọt trong "Bảng xếp hạng Top 500 thương hiệu giá trị nhất thế giới 2022" (Global 500) và đứng ở vị trí 227. Ngoài ra, Viettel tiếp tục duy trì vị trí số 1 về thương hiệu viễn thông tại Đông Nam Á và nằm trong top 3 thương hiệu giá trị nhất khu vực.
Vinamilk đứng thứ 8 trong top 10 thương hiệu sữa giá trị nhất toàn cầu năm 2021 theo xếp hạng của Brand Finance. Không chỉ đạt thứ hạng cao ở ngành sữa, Vinamilk đã chinh phục 2 bảng xếp hạng là Top 5 thương hiệu thực phẩm mạnh nhất toàn cầu và nằm trong top 30 của 100 thương hiệu thực phẩm giá trị nhất toàn cầu với vị trí thứ 27, tăng mạnh 9 bậc so với năm 2020.
Những năm gần đây, thứ hạng giá trị Thương hiệu quốc gia Việt Nam liên tục được cải thiện trên Bảng xếp hạng thế giới và nằm trong nhóm thương hiệu mạnh. Cục trưởng đánh giá thế nào xung quanh vấn đề này?
Giai đoạn 2016-2020, giá trị thương hiệu Việt Nam tăng 226% từ 141 tỷ USD (năm 2016) lên 319 tỷ USD (năm 2020), xếp thứ 33 trong top 100 thương hiệu mạnh thế giới.
Bất chấp dịch COVID-19, năm 2021, thương hiệu quốc gia Việt Nam tiếp tục duy trì thứ hạng 33 trong danh sách này, đạt 388 tỷ USD giá trị thương hiệu, tăng 21,69% so với năm 2020.
Để đạt được những thành quả trên, trước hết là chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành thống nhất của Chính phủ trong các hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội đã tạo cho Việt Nam có uy tín cũng như vị thế trên trường quốc tế.
Cùng với đó, các bộ, ngành và địa phương, bằng việc thực hiện Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam đã nỗ lực xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam là quốc gia có hàng hóa và dịch vụ có chất lượng không chỉ ở thị trường trong nước mà cả trên thị trường quốc tế.
Điều này góp phần thúc đẩy sự thăng hạng mạnh mẽ của Thương hiệu quốc gia Việt Nam trong thời gian qua và đưa Việt Nam lọt vào nhóm các nước có thương hiệu mạnh.
Đặc biệt là sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp nhằm gia tăng giá trị và vị trí của thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế.
Trong 2 năm qua, với nhiều khó khăn, thách thức do dịch COVID-19 gây ra, đi kèm đó là xung đột kinh tế, địa chính trị của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng với tính chủ động, sáng tạo vốn có của các doanh nghiệp Việt đã giúp các sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam nâng tầm vị thế, khẳng định được giá trị và chất lượng trên thị trường trong và ngoài nước.
Để chinh phục các thị trường "khó tính", ngoài nâng cao chất lượng, tăng sự khác biệt với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác..., theo Cục trưởng, doanh nghiệp cần làm gì để xây dựng thương hiệu thành công?
Để xây dựng thành công một thương hiệu ở thị trường "khó tính", ngoài vấn đề về chất lượng và sự khác biệt, doanh nghiệp cần lưu ý đến việc đăng ký bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến sản phẩm ở nước ngoài. Đây có thể xem là việc quan trọng để đảm bảo thành công cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu ở nước ngoài. Bởi nhiều doanh nghiệp ngại đăng ký vì thủ tục rườm rà, rắc rối, chồng chéo, đã tạo cơ hội cho tình trạng ăn cắp mẫu mã để làm giả, làm nhái khá phổ biến.
Mặt khác, thường xuyên thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phát triển sản phẩm để đáp ứng yêu cầu về chất lượng, đổi mới, sáng tạo và có tính tiên phong trên thị trường.
Nếu không thực hiện thường xuyên, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng xuất khẩu các sản phẩm không phù hợp với nhu cầu của thị trường như thiết kế kích thước, màu sắc, kiểu dáng ...
Bên cạnh đó, tìm kiếm liên kết để xây dựng thương hiệu Việt như kết nối cung cầu, kết nối giữa nhà sản xuất trong nước với các doanh nghiệp phân phối nước ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài sản xuất để xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào hệ thống phân phối ở nước ngoài.
Cuối cùng và cũng là quan trọng nhất là nhận thức của doanh nghiệp về vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng, quản trị và phát triển thương hiệu ở nước ngoài, để từ đó giành nguồn lực phù hợp, coi chi phí cho hoạt động này là một khoản đầu tư trung và dài hạn giúp nâng cao giá trị doanh nghiệp.
Xin Cục trưởng cho biết định hướng của Chương trình Thương hiệu quốc gia thời gian tới như thế nào và Bộ Công Thương có động thái gì để thúc đẩy chương trình ngày càng phát triển?
Căn cứ vào mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể mà Thủ tướng Chính phủ đã giao trong Quyết định số 1320/QĐ-TTg ngày 08/10/2020 phê duyệt Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam giai đoạn 2020 đến năm 2030, định hướng trong thời gian tới Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các bộ, ngành thực hiện các hoạt động chính.
Theo đó, Bộ sẽ thực hiện thật tốt kỳ xét chọn lần thứ 8 các sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia năm 2022 và sẽ tổ chức Lễ công bố trong quý IV năm 2022.
Ngoài ra, Bộ tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và xã hội về vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc xây dựng và phát triển thương hiệu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là cấp lãnh đạo doanh nghiệp.
Cùng với đó, tăng cường các hoạt động nâng cao năng lực xây dựng, phát triển và quản trị thương hiệu cho các doanh nghiệp, nhất là đáp ứng hệ thống tiêu chí của thương hiệu quốc gia Việt Nam.
Hơn nữa, tập trung các hoạt động tuyên truyền, quảng bá Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam và các sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia, nhất là ngoài nước và với các sản phẩm tiềm năng.
Đặc biệt, Bộ Công Thương sẽ phát động, kêu gọi sự tham gia đồng hành của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam trong việc cùng chung tay phát triển Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam đúng với ý nghĩa, tầm vóc là chương trình của Chính phủ, vì một Việt Nam hùng cường với những thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp có giá trị.
Xin trân trọng cảm ơn Cục trưởng.
Lưu ý doanh nghiệp cung cấp đủ thông tin xuất xứ khi xuất khẩu vào Ấn Độ Thị trường Ấn Độ đang mở cửa mạnh mẽ qua việc vừa ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE) và trong năm 2022 có thể ký với một số quốc gia khác như Anh, EU, Canada, cộng đồng các nước vùng vịnh. Phân loại Thanh Long Bình Thuận trước khi đi...