Ai dễ mắc bệnh giãn phế quản?
Giãn phế quản là tình trạng giãn không hồi phục các phế quản nhỏ và trung bình kèm theo sự rối loạn cấu trúc các lớp phế quản, tăng tiết dịch phế quản và nhiễm khuẩn từng đợt. Bệnh có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải. Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ với tỉ lệ so sánh 4 nam/1 nữ.
Nhóm đối tượng cần lưu ý
Có thể bạn đã từng biết một người họ hàng hay bạn bè, trước đây là người khỏe mạnh bình thường, nay nghe tin người đó bị bệnh giãn phế quản. Điều mà bạn muốn biết là vì sao từ một người bình thường lại mắc bệnh giãn phế quản? Có phòng tránh được không?
Giãn phế quản có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải, trong đó bệnh mắc phải là phổ biến, nhưng có thể phòng tránh được. Bệnh giãn phế quản mắc phải có hai thể khu trú và lan tỏa. Thể khu trú do phế quản bị hẹp một phần gây nên sự ứ dịch tiết nên dễ nhiễm khuẩn và làm cho phế quản bị giãn ra. Các bệnh gây hẹp phế quản là khối u lành tính hoặc ác tính, dị vật đường thở; lao sơ nhiễm, áp xe phổi… Thể lan tỏa thường do di chứng của các bệnh: sởi, ho gà, nhiễm Arbovirus. Đặc biệt có một bệnh hiếm gặp là bệnh xơ tụy tạng nhầy kén, làm rối loạn tiết dịch gây nên nhiễm khuẩn tái phát dẫn đến giãn phế quản rất nặng, suy hô hấp mạn, bệnh nhân thường tử vong trước tuổi trưởng thành. Giãn phế quản do hoá chất: người làm việc lâu ngày với các hoá chất bay hơi, hít phải hóa chất vào đường hô hấp, chúng gây kích thích, tăng tiết và tổn thương cấu trúc thành phế quản, gây ho và tăng áp lực trong lòng phế quản dẫn tới giãn phế quản.
Giãn phế quản bẩm sinh có thể gặp trong bệnh đa kén phổi, thường phối hợp với đa kén thận, tụy và gan; Suy giảm miễn dịch thể dịch toàn thể. Suy giảm miễn dịch tế bào: gặp trong hội chứng Kartagener, giãn phế quản phối hợp với đảo phủ tạng và viêm xoang sàng, xoang hang.
Phế quản bình thường (trên), giãn phế quản (dưới).
Biểu hiện của giãn phế quản
Nếu chú ý, bạn rất dễ nhận thấy một người bị bệnh giãn phế quản nhờ các biểu hiện sau đây: khạc đờm, gặp ở 80% bệnh nhân bị giãn phế quản, họ thường khạc đờm nhiều nhất vào buổi sáng, hay có khi khạc đờm rải đều trong ngày. Lượng đờm nhiều ít tùy từng bệnh nhân, thường khạc đờm: từ 20-100 ml/ngày, nhiều hơn trong đợt cấp. Đờm trong bệnh giãn phế quản có mùi thạch cao, có khi có mùi hôi, nếu để lắng sẽ có 4 lớp từ trên xuống dưới là: bọt, dịch nhầy trong, đờm mủ đặc, đờm mũi nhầy. Tuy nhiên có người mắc bệnh giãn phế quản thể khô không khạc đờm. Ho thường kèm theo khạc đờm. Bạn dễ nhận thấy bệnh nhân “ho khạc quanh năm”. Khoảng 8% bệnh nhân ho ra máu. Ho ra máu với các dạng: tia máu đỏ trong đợt viêm; ho ra máu lượng nhiều hơn, màu đỏ chói là chảy máu khi có biến chứng; Khó thở; Nhiễm khuẩn phổi tái phát nhiều lần; Tràn dịch màng phổi. Ở người bệnh lâu ngày, bạn có thể nhìn thấy ngón tay hình dùi trống. Bệnh có các biến chứng: viêm phổi thùy, phế quản phế viêm, ápxe phổi, tràn dịch màng phổi, lao phổi, ápxe não, ho ra máu… Sau nhiều năm tiến triển sẽ dẫn đến suy hô hấp mạn và tâm phế mạn, bệnh nhân có thể tử vong sau vài năm.
Giãn phế quản nhìn trên phim chụp cắt lớp vi tính.
Video đang HOT
Những việc cần làm để tránh mắc bệnh
Việc chữa bệnh giãn phế quản rất khó khăn, tốn nhiều thời gian và kinh phí. Tùy theo thể bệnh và giai đoạn tổn thương mà dùng phương pháp điều trị thích hợp như dẫn lưu tư thế để tháo mủ ra ngoài. Dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ, tức là cấy đờm tìm vi khuẩn rồi dùng kháng sinh có tác dụng diệt vi khuẩn đó hiệu quả nhất. Phẫu thuật cắt bỏ vùng phổi bị giãn phế quản. Vì vậy những việc cần làm để tránh mắc bệnh sau đây là rất cần thiết đối với mọi người.
– Bạn nên cho gia đình bạn, đặc biệt là trẻ em tiêm vacxin phòng ngừa bệnh cảm cúm, vì khi bị cảm cúm, sức đề kháng của cơ thể giảm sẽ rất dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn tai mũi họng và đường hô hấp mà hậu quả là bị giãn phế quản.
- Các bậc cha mẹ nên đưa con đi tiêm phòng đầy đủ Chương trình tiêm chủng mở rộng để phòng các bệnh: lao, sởi, bạch hầu, ho gà bởi nếu trẻ mắc các bệnh này rất dễ bị giãn phế quản lúc trưởng thành.
– Khi bạn hoặc người thân của bạn bị các bệnh bẩm sinh hay mắc phải như: polyp phế quản, dị vật đường thở, khối u lành tính hoặc ác tính ở phổi, lao sơ nhiễm, ápxe phổi, viêm phổi, phế quản cấp và mạn tính, nhiễm khuẩn tai mũi họng…cần phải điều trị khỏi hẳn, có như thế mới tránh di chứng là nguyên nhân gây giãn phế quản sau này.
– Đối với người làm việc trong môi trường phải tiếp xúc với hóa chất dễ bay hơi cần phải sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động như đeo khẩu trang, đeo kính hoặc mặt nạ phòng độc. Chủ cơ sở phải có biện pháp làm thông thoáng không gian làm việc như sử dụng quạt thông gió, mở nhiều cửa tạo sự thông thoáng cho phòng làm việc, dùng máy hút bụi, hút hơi hóa chất… để tránh bị giãn phế quản do hít phải hóa chất.
- Vệ sinh răng miệng hàng ngày, đeo khẩu trang khi ra đường hay ở nơi công cộng, để tránh lây nhiễm bệnh qua đường hô hấp, ngăn chặn hậu quả giãn phế quản.
Theo SKĐS
Canxi - thiếu, thừa đều hại
Canxi có 99% ở xương và răng giúp cho sự hình thành phát triển duy trì hoạt động hai cơ quan này. Nó chỉ hiện diện 1% trong máu, mô mềm nhưng lại có ý nghĩa quan trọng khác...
Sữa là nguồn cung cấp canxi dồi dào. Ảnh: minh họa - Internet
Nhu cầu và tác hại do thiếu canxi
Với thai nhi, trẻ sơ sinh:
Mỗi ngày thai cần ở thời kỳ đầu 350mg, giữa 150mg, cuối 150 - 450mg canxi. Mỗi ngày người lớn cần 800mg (theo WHO). Song nhiều nghiên cứu cho biết, hầu hết đều đạt thấp hơn: ở Mỹ, nữ da trắng 640 mg, nữ da đen 452mg; ở Trung Quốc chung cho nam nữ thành phố lớn 600mg, nông thôn 378mg; ở Việt Nam khoảng 400mg canxi.
Mỗi ngày bà mẹ mang thai cần 1.000 - 1.200mg. Khi canxi - máu thấp, theo "phản xạ tự nhiên", tuyến cận giáp tăng tiết parathyroid để phân giải canxi dạng không tan của xương thành dạng tan, phóng thích vào máu, cung cấp cho thai song sự đáp ứng này chỉ nằm trong giới hạn. Kết cục, khi bà mẹ thiếu canxi, thai sẽ thiếu canxi, dẫn đến: chứng còi xương, dị dạng xương bẩm sinh; chứng hạ canxi - máu ngay khi sinh ra với biểu hiện co rút, co giật các cơ, thậm chí nín thở, ngừng hô hấp; chứng khò khè bẩm sinh (do các cơ liên quan hô hấp không làm tốt chức năng).
Ở trẻ còn rất nhỏ:
Bà mẹ cung cấp hoàn toàn (trước khi ăn dặm) hay một phần lớn (trước lúc bỏ bú) cho trẻ. Nếu bà mẹ thiếu, trẻ cũng sẽ thiếu canxi, dẫn đến chứng hạ canxi - máu nhẹ (dễ bị giật mình, ngủ không yên, quấy khóc) hay hạ canxi máu nặng (co giật). Các biểu hiện này xuất hiện vài ba ngày, vài ba tuần hay một tháng sau sinh, ngày càng rõ.
Ở trẻ tuổi nhỏ, tuổi trưởng thành:
Lúc này canxi cho trẻ do chế độ ăn quyết định.
Thiếu canxi sẽ khó hình thành, phát triển, duy trì hoạt động xương răng, nhất là chiều dài xương, dẫn đến có chiều cao khiêm tốn (so với trẻ cùng trang lứa trong cùng dân tộc, hệ di truyền). Thiếu canxi còn làm giảm sự sự lắng đọng cục bộ, khô chất gian bào ở đầu xương, gây ra cơn đau tăng trưởng ở bắp chuối hay một bên hoặc cả hai bên khớp gối nhưng không phải là viêm khớp.
Canxi tham gia vào các hoạt động của các enzym chuyển hóa protid, lipid, glucid; nếu thiếu, các quá trình này bị trở ngại, ảnh hưởng đến dinh dưỡng, làm trẻ chậm phát triển về thể chất. Canxi tham gia vào tế bào phóng thích acetylcholine, norephenephrin, tham gia vào hoạt động vùng dưới đồi, tuyến yên; thúc đẩy việc phòng thích hormon cortical, nhằm đảm bảo sự dẫn truyền thông tin giữa các tế bào thần kinh với nhau và giữa tế thần kinh với các tế bào khác; nếu thiếu thì quá trình học nhớ, tư duy bị sút kém, trẻ chậm phát triển tinh thần, trí tuệ.
Một số bệnh khi thiếu canxi tuổi trưởng thành sẽ không bộc lộ, nhưng tạo tiền đề cho sự bộc lộ ấy vào tuổi trung niên, tuổi già: như bệnh loãng xương, chứng lẩn thẩn tuổi già, bệnh cao huyết áp.
Bổ sung canxi như thế nào?
Sự hấp thu canxi:
Cơ thể trẻ chỉ hấp thu khoảng 50% lượng canxi từ thức ăn. Canxi dạng hòa tan hấp thu dễ, dạng không hào tan không hấp thu được. Khi sự phân tiết acid dạ dày kém (trẻ quá nhỏ tuổi) thì việc chuyển sang dạng canxi hòa tan giảm, sự hấp thu canxi giảm theo; song nếu thức ăn có thêm acid (dấm, vitamin C) hay có thêm chất lysine, tryptophan, arginn, histidin, sự chuyển thành dạng canxi tan tăng lên, sự hấp thu canxi tăng theo. Khi có các bệnh đường ruột (trẻ tiêu chảy dai dẳng, táo bón...), sự hấp thu canxi cũng kém đi.
Khi canxi nhiều hơn phosphor, canxi dễ hấp thu, nhưng khi phospho nhiều hơn thì canxi khó hấp thu. Tỷ lệ canxi/phosphor(Ca/P) bằng 1/1 thuận lợi cho hấp thu canxi từ 1 tuổi đến cuối đời, nhưng tỷ lệ bằng 2/1 sẽ thích hợp cho trẻ sơ sinh đến 2 tháng và bằng 1,5/1 thích hợp cho trẻ từ 2 tuổi đến dưới 1 tuổi. Sữa người có tỷ lệ Ca/P khoảng1,31/1 nên việc hấp thu canxi chưa phải tối ưu nhưng tốt hơn sự hấp thu canxi ở các thức ăn và sữa khác rất nhiều.
Bổ sung canxi bằng thực phẩm:
Giá trị canxi của thực phẩm không chỉ ở hàm lượng mà còn ở các yếu tố hấp thu trên. Canxi ở thực vật (vì có một số ở dạng không hòa tan như oxalat) nên không tốt bằng ở động vật; động vật trên cạn có hàm lượng canxi thấp nên không tốt bằng động vật ở dưới nước (cá tôm, cua, ếch), nhất là loại tôm cá biển. Cần ăn cân đối giữa thức ăn thực vật - động vật trên cạn, dưới nước. Nếu chỉ ăn thực vật, có khi canxi tính lượng thô vẫn đủ, nhưng lượng hấp thu vào cơ thể vẫn thiếu.
Bổ sung canxi bằng thuốc:
Khi bị bệnh do thiếu canxi nặng (có biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm rõ) mới cần dùng thuốc. Nếu bệnh nặng như còi xương, cần dùng thuốc canxi kèm với vitamin D liều cao, nhưng nếu bệnh khỏi (hết biểu hiện trên lâm sàng, xét nghiệm), cần ngừng cả hai thuốc vì thừa cả hai thứ đều làm tăng canxi - máu, có hại. Khi bệnh cấp cứu như hạ canxi - máu nặng cần dùng dạng canxi tiêm và chỉ thực hiện tại bệnh viện.
Khi thiếu canxi mức vừa, có thể bổ sung thuốc chứa canxi, vitamin D loại có hàm lượng thấp (canxi 200mg - 500mg, vitamin D 200IU). Sau 3 tháng, kiểm tra lại, nếu đã đủ thì ngừng thuốc, khi nào thiếu bổ sung lại. Nếu cho trẻ ăn cả ngày không kể liều lượng và kéo dài sẽ thừa canxi, trẻ sinh ra mỏi mệt, chán ăn. Loại có hàm lượng canxi và vitamin D hoặc chỉ có vitamin D hàm lượng cao, tác dụng kéo dài chỉ dùng để chữa bệnh theo đơn, tuyệt đối không tự ý dùng để bổ sung canxi, vitamin D cho trẻ không có bệnh, vì sẽ tăng canxi - máu, gây độc.
Theo BĐVN
Chữa bệnh bằng hoa Hương thơm cũng như các chất trong một số loài hoa có tác dụng chữa một số bệnh. Vì vậy, y học cổ truyền sử dụng nhiều loài hoa để chữa bệnh. Dưới đây, xin giới thiệu công dụng chữa bệnh của một số loài hoa phổ biến để bạn đọc tham khảo. Cúc vạn thọ trị kiết lỵ Hoa cúc vạn thọ...