Ai đặt máy nghe lén trong buồng ngủ Mao Trạch Đông’?
Khi phát hiện buồng ngủ của mình trên toa xe lửa “tuần du” đến Hồ Nam bị đặt máy nghe lén hiện đại, Mao Trạch Đông không khỏi kinh ngạc, gọi ngay những người có trách nhiệm cao nhất về an ninh đang ở quanh mình và cả Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ từ Bắc Kinh bay đến giải trình…
Mao Trạch Đông (trái) và Lưu Thiếu Kỳ
Tháng 2.1961, chuyến xe lửa tuần du phương nam của Mao Trạch Đông dừng lại tại thủ phủ tỉnh Hồ Nam, một nữ nhân viên xinh đẹp trong tổ phục vụ của Mao Trạch Đông đã bất thần báo cáo với ông:
“Thưa Chủ tịch, có người nào đó đã đặt máy nghe trộm trong buồng ngủ của Chủ tịch!”. Ông hỏi đôi ba lần vì sao biết?. Cô ta trả lời vì người bạn trai cùng tổ của cô tiết lộ: “Anh đã nghe được tiếng nói của em trong buồng ngủ của Mao Chủ tịch”. Mao Trạch Đông gọi ngay Dương Thượng Côn (*) đến, hỏi thẳng mặt: “Ai bảo các ông đặt máy nghe trộm trên xe lửa?”. Tài liệu Tân Tử Lăng cho biết câu đáp của Dương Thượng Côn và chi tiết tiếp đó (tóm lược) như sau:
- “Thưa Chủ tịch, từ ngày phát động “bước tiến nhảy vọt” đến nay, Chủ tịch thường tiếp một số đồng chí trên xe lửa, triển khai nhiều ý kiến mà thư ký không thể ghi chép đầy đủ hết, bỏ sót nhiều chỉ thị quan trọng của Chủ tịch. Vì thế Ban Bí thư quyết định đặt máy nghe trên xe lửa để ghi lại những gì Chủ tịch nói ra…”.
Giận lắm, nhưng bản lĩnh tự kiềm chế của Mao Trạch Đông rất thượng thừa, nên ông chỉ nói nhỏ nhẹ, vừa phải: “Các ông tốn nhiều công sức tôi không trách. Tôi hỏi thiết bị nghe lén do ai cung cấp?”. Dương Thượng Côn đáp: “Thưa Chủ tịch, thiết bị nghe lén hiện đại nhập từ nước ngoài thông qua con đường hữu quan với danh nghĩa của Văn phòng Trung ương Đảng ta”. Mao tiếp: “Lắp đặt từ bao giờ?”. “Dạ, từ tháng 1 năm 1959 đến nay”. Mao Trạch Đông hỏi: “Đã hơn hai năm rồi đấy, mà tôi chả biết chút nào. Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình có biết không?”. Dương Thượng Côn đáp: “Hai đồng chí ấy tán thành”.
Video đang HOT
Rời khỏi cuộc tra vấn trên, Dương Thượng Côn lạnh toát mồ hôi, điện thoại ngay cho Lưu Thiếu Kỳ. Lưu Thiếu Kỳ lập tức đáp máy bay đến gặp Mao Trạch Đông để “trình nghị quyết của Ban Bí thư tháng 12.1958 về việc đặt máy ghi âm tại buồng ngủ của Mao trên xe lửa và giải thích việc này chỉ nhằm bám sát, học tập chỉ thị của Mao không có ý gì khác” và đề nghị kiểm tra, tiêu hủy toàn bộ số băng ghi âm cùng các bản chỉnh lý lưu trữ tại phòng bảo mật của văn phòng Trung ương. Lưu Thiếu Kỳ nói tuy đây là chủ kiến của Ban Bí thư, nhưng Lưu đã “tán thành cho làm, nên ông xin lỗi Mao Trạch Đông và sẵn sàng chịu kỷ luật”. Mao làm bộ tươi cười: “Các ông rõ là tốt bụng…” song thòng thêm một câu có ý trách Lưu Thiếu Kỳ đã “làm một việc không hay lắm”.
Từ đó, theo nhận định của Tân Tử Lăng: “Mao Trạch Đông không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Ban Bí thư nữa, nó là bước ngoặt khiến quan hệ Mao Trạch Đông – Lưu Thiếu Kỳ trở nên thù địch”. Tế nhị và “nguy hiểm” nhất là: Lưu Thiếu Kỳ thấy rõ sai lầm của Mao Trạch Đông trong “bước tiến nhảy vọt” – điều mà Mao Trạch Đông rất “kỵ” – tất yếu dẫn đến bi kịch cuối đời Lưu Thiếu Kỳ như sau:
Ngày 6.1.1967 Giang Thanh đạo diễn việc đưa phu nhân Vương Quang Mỹ (vợ Lưu Thiếu Kỳ) đến Đại học Thanh Hoa phê đấu. Đêm 13.1, Lưu Thiếu Kỳ đến gặp Mao Trạch Đông lần cuối xin từ chức Chủ tịch nước để “cùng vợ con về quê làm ruộng”. Nhưng vẫn không xong, vì sau đó Giang Thanh vận động hơn 300.000 người dự đại hội phê phán Vương Quang Mỹ “Từ sáng sớm, ôtô của Hồng vệ binh đã vào Trung Nam Hải bắt người. Vương Quang Mỹ bị dẫn đến tầng 7 tòa nhà chính của Đại học Thanh Hoa, bị cưỡng bức mặc bộ trang phục hồi đi thăm Indonesia và bị choàng lên cổ một chiếc “dây chuyền” cực lớn xâu bằng những quả bóng bàn (…). Hôm sau, tin ảnh về “ba lần thẩm vấn Vương Quang Mỹ” xuất hiện trên các bản tin của Hồng vệ binh làm chấn động dư luận thế giới”, vì qua đó “sự tôn nghiêm của Lưu Thiếu Kỳ trên cương vị Chủ tịch nhà nước Trung Quốc bị quét sạch trơn”.
Ngày 5.8.1967, Giang Thanh và đồng đảng triệu tập hơn 1 triệu người tụ về quảng trường Thiên An Môn để hỏi tội Lưu Thiếu Kỳ (và Đặng Tiểu Bình, Đào Chú) rồi đấu tố họ tại chỗ. Riêng Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ bị đánh sưng mặt, tuột cả giày, lảo đảo đi hai chân không rời khỏi quảng trường. Khoảng hơn một tháng sau, ngày 13.9.1967 mới thực sự là ngày đại nạn, ly tan của gia đình Lưu Thiếu Kỳ, phu nhân Vương Quang Mỹ bị bắt, ba người con ở tuổi đi học phải chịu thẩm tra và ông “bị giam ngay trong văn phòng Chủ tịch nước (…) mấy lần đấu đá khiến bị thương nặng nề (…) mỗi bữa ăn khoảng cách đến nhà ăn chỉ chừng 30 mét, mà ông phải lê đôi chân bị thương đi mất 50 phút. Người ta đã nhắc nhở lính canh không được đỡ giúp” – năm ấy ông 69 tuổi…
Theo Một Thế giới
Mao Trạch Đông Mật lệnh sau "bức tường đỏ"
M ột đêm cuối năm 1966, thủ tướng Chu Ân Lai nhận điện thoại cầu cứu khẩn cấp từ Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên) gọi về theo đường dây đặc biệt , báo tin nhóm Hồng vệ binh từ Bắc Kinh tới, đã trèo tường leo vào nơi nguyên soái Bành Đức Hoài đang ở bắt ông đi mất ...
Thời hoàng kim: Bành Đức Hoài ký thỏa thuận đình chiến trong chiến tranh Triều Tiên 1953
Suốt đêm ấy, Chu Ân Lai không ngủ vì mới hôm nào "Bộ trưởng Bộ công nghiệp than Trương Lâm Chi bị phái tạo phản đấu đá bức cung đến nỗi phải bỏ mạng (...) Những sự việc vô thiên vô pháp cứ liên tiếp xảy đến: La Thụy Khanh (đại tướng), Trần Nghị, Hạ Long (nguyên soái) bị đấu", giờ đây Hồng vệ binh ngang ngược đòi giải "tên tội phạm đặc biệt" Bành Đức Hoài về Bắc Kinh thẩm vấn.
Chu Ân Lai lập tức chỉ thị Bộ tư lệnh Vệ Tuất đưa lực lượng đến ga Bắc Kinh chờ sẵn để "bố trí chỗ ở và học tập cho đồng chí Bành Đức Hoài thật chu đáo". Và lệnh quân khu Thành Đô phái người cùng đi với Hồng vệ binh "hộ tống đồng chí Bành Đức Hoài trở về Bắc Kinh (...) đảm bảo tuyệt đối an toàn". Nhưng Hồng vệ binh chỉ "tuân theo thánh chỉ của Giang Thanh, không còn coi trọng các chỉ thị của thủ tướng Chu Ân Lai nữa" (sđd, tr.235). Điều ấy nêu rõ qua bài viết của Tạ Liễu Thanh đăng trong phần phụ lục cuốn "Bốn người vợ của Mao Trạch Đông" tóm lược dưới đây.
Từ mùa hè 1966, đằng sau "bức tường đỏ" của Trung Nam Hải (trung tâm quyền lực chính trị cao nhất của toàn Trung Quốc) cuộc "Đại cách mạng văn hóa vô sản long trời lở đất" đã được vạch sẵn. Đến 13.12.1966, gió bấc thổi lạnh khắp đường phố Bắc Kinh nhưng không khí trong tòa nhà Quốc hội vẫn bừng nóng bởi những lời kích động của Giang Thanh trong buổi huấn thị các "tiểu tướng" Hồng vệ binh, rằng: Bành Đức Hoài hiện đang ở Thành Đô như "một ông vua chư hầu không ai dám đụng đến" và hạ chỉ:
- "Các cậu phải bắt hắn trở về Bắc Kinh, quật ngã hắn xuống đất" (sđd, tr. 217-218)
Thân phận nguyên soái Bành Đức Hoài sau khi bị người vợ thứ 4 của Mao Trạch Đông hạ chỉ
Tuân lệnh, Vương Đại Tân cùng Hồng vệ binh có mặt ở Thành Đô đêm Giáng sinh 24.12.1966. Ngay đêm ấy những khẩu hiệu cỡ lớn đột ngột xuất hiện đầy rẫy trên các tường nhà viết chữ lớn: "Nã pháo vào Bành Đức Hoài!".
Sớm hôm sau 25.12, Hồng vệ binh "giải Bành Đức Hoài đến nhà ga, vừa kéo vừa đẩy, bắt ông phải lên con tàu đi Bắc Kinh". Giữa khuya, Hồng vệ binh không để ông già 68 tuổi như Bành Đức Hoài ngủ yên mà thay nhau "thét vào tai ông", bắt khai rõ những "tội trạng phản cách mạng" ngay trên tàu. Rạng sáng 26.12, ông quá khát nước, lảo đảo lần bước vào buồng vệ sinh "vặn vòi nước, vụm hai tay vốc lên mấy vốc, ghé miệng uống ừng ực" (sđd, tr.257).
Những người đi cùng chuyến tàu khó hình dung ông già phờ phạc đứng trước mặt họ từng có thời trẻ lẫy lừng đánh Đông dẹp Bắc, chiếm ải Lâu Sơn, đoạt thành Tuân Nghĩa, tiêu diệt 2 sư đoàn, 8 trung đoàn, bắt sống hơn 3000 binh sĩ của đối phương và đích thân chỉ huy đánh tan một vạn quân Mã hồi hung hãn tại thị trấn Ngô Khởi, giành "thắng lợi lớn nhất trên đường trường chinh vạn dặm của Hồng quân"... Nhưng giờ đây vị nguyên soái ấy từ toa lét bước ra với hình hài tiều tụy đang bị đám Hồng vệ binh vô danh quát mắng, có tên giơ tay đòi đánh, ông ngẩng mặt lên nói rõ từng tiếng một:
- "Ta già rồi, năm nay đã gần 70 tuổi, hồi ta còn trẻ, một mình ta đánh gục 20 người, đánh đến mức kẻ nào bỏ chạy thì bỏ chạy, kẻ xin tha mạng thì tha cho, nhưng không bao giờ ta đánh một ông già".
Chẳng cần nghĩ tới đạo lý của câu nói ấy, đến Bắc Kinh, hơn 60 Hồng vệ binh theo khẩu lệnh của Giang Thanh đã lôi "ông già" ra trước Học viện Hàng không đấu tố lần thứ nhất vào 19.7.1967.
Lúc "cao trào", một Hồng vệ binh khỏe mạnh đã nhảy luôn lên bàn mắng nhiếc, gọi ông bằng mầy: "Mầy chống Mao chủ tịch phải không?", rồi đấm mạnh vào mặt. Ông già loạng choạng ngã xuống. Đám còn lại túa đến lôi ông dậy đánh tiếp đến ngất xỉu, đưa vào bệnh viện 267. Kiểm tra X-quang thấy sườn bên phải gãy xương số 5, nứt xương số 10, máu tụ ngực trái, tổn thương nặng ngực phải.
Từ đó đến năm 1971, Tổ chuyên án tiếp tục thẩm vấn ông lạnh lùng và dã man với hơn 150 lần, dẫn đến phải nằm liệt giường, tàn phế. Bác sĩ Trại giám sát biết không chữa chạy nổi mới chuyển ông vào bệnh viện Quân giải phóng. Tỉnh dậy, ông thấy tờ bệnh án treo ở đầu giường không viết tên mình (để bảo mật), thay vào đó bằng con số: "Họ tên: 145" (lấy tên giường số 5, buồng 14). Ông uất ức la to:
- Ta không phải con số 145! Ta là nguyên soái Bành Đức Hoài !.
Nhưng không ai nghe cả, họ chỉ theo mật lệnh sau "bức tường đỏ" Trung Nam Hải để lấy giấy báo dán kín tất cả cửa sổ, không cho một chút ánh sáng nào lọt qua, làm căn phòng ông nằm trở nên tối om suốt ngày, nhằm giam ông vào thế giới của "địa phủ" ngay giữa trần gian...
Còn tiếp...
Theo Một Thế Giới
Lời mời Mao Trạch Đông thăm Đài Loan của Tưởng Giới Thạch Không tìm được người liên lạc thích hợp, cuối cùng, Tưởng Giới Thạch đã quyết định sử dụng một phương thức đặc biệt để "phát tín hiệu" cho phía Mao Trạch Đông. Năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc của Mao Trạch Đông đánh bại phe Quốc dân Đảng, thành lập nước Trung Quốc mới, Tưởng Giới Thạch mang tàn quân chạy ra...