A koát – biểu tượng độc đáo của văn hóa ẩm thực người Pa Cô
A koát là một loại bánh truyền thống của người dân tộc Pa Cô, được sử dụng trong hầu hết những dịp trọng đại của gia đình. Vào những dịp có lễ hội trong năm, a koát được gói dành đãi khách và làm quà tặng cho nhà trai khi có đám cưới. Tới nhà gia đình đồng bào Pa Cô trong dịp Tết, không có nhà nào thiếu loại bánh truyền thống này.
Chị Hồ Thị Huệ bên khay bánh a koát mới luộc xong. Ảnh: Phạm Hiền
Bánh a koát là biểu tượng của sự no ấm của người Pa Cô ở Quảng Trị. Vì vậy, mùa Xuân năm nào, các gia đình có nhiều bánh a koát để ăn lai rai hết tháng Giêng thì đó là một năm đủ đầy, không thiếu đói lương thực, thực phẩm.
Chị Hồ Thị Huệ, ở thôn A Rong Dưới, xã A Ngo, huyện Đakrông cùng một số chị em trong thôn vào rừng tìm lá đót, lá dong để mang về gói bánh. Lấy về, chị tất bật rửa lá, rồi gọi chị em tập trung tại nhà dài của đồng bào Pa Cô để cùng gói bánh. Chị tự tay gói được 34 chiếc bánh a koát. Hình dáng chiếc bánh giống như chiếc sừng trâu/dê rất đẹp mắt.
Chị Huệ cho biết, đây là loại bánh truyền thống của người Pa Cô được làm từ gạo nếp, gói trong lá đót tươi. Khi làm bánh a koát, người Pa Cô không ngâm gạo nếp trước khi gói mà chỉ đãi gạo sạch rồi gói luôn. Bánh cũng không có nhân đậu xanh, thịt mỡ, hành mà chỉ hoàn toàn là gạo nếp. Vì vậy, bánh a koát không có vị giống như bánh chưng mà dẻo thơm, mùi nếp ăn không ngán.
Phụ nữ Pa Cô thường dùng gạo nếp, loại được trồng nhiều trong các nương rẫy của đồng bào vùng cao Quảng Trị để làm bánh. Khi gói bánh, chị em thường cầm ngửa lá đót, rồi quấn ngọn hoặc gốc lá đót vòng quanh ngón tay cái hai vòng để tạo hình chóp nón. Sau đó, lật ngược, bốc nếp bỏ vào cho đầy, rồi quấn phần gốc hoặc ngọn còn lại của lá đót thành chóp thứ hai.
Video đang HOT
Bánh gói xong được ngâm vào nước lạnh khoảng 2 giờ để nếp nở ra, mềm hơn và mau chín. Sau đó, vớt bánh cho vào nồi, đổ ngập nước, nấu 2-3 giờ là có thể ăn được. Bí quyết về sự dẻo thơm của bánh a koát ở cách chọn gạo nếp, chọn lá và thời gian ngâm nước, đun sôi nấu bánh của những người phụ nữ Pa Cô đảm đang, khéo léo…
Những người phụ nữ Pa Cô gói bánh giỏi còn có thể gói bánh a koát có 3 chóp, phỏng theo hình ảnh con trâu có đủ thân hình và đôi sừng rất đẹp (a koát theo tiếng Pa Cô nghĩa là con trâu). Biểu tượng trâu luôn đi kèm trong cuộc sống của người Pa Cô, gắn với việc trồng trọt, chăn nuôi, là con vật hiền lành, đem lại may mắn, ước vọng về sự no ấm, phồn thịnh. Hơn thế nữa, con trâu của người Pa Cô còn là vật tế thần, biểu tượng về ý niệm tâm linh của họ. Vì vậy, bánh a koát thường không thể thiếu trong mâm cơm cúng lễ, Tết.
Ngoài những dịp trọng đại như đám cưới, lễ, Tết chính như lễ mừng năm mới, mừng lúa mới, tạ ơn trời đất, người Pa Cô còn gói bánh a koát trong một số dịp khác như cúng ông bà tổ tiên, lễ cúng dòng họ… Trong không gian quy tụ, sum họp ấy, bánh được trang trọng xuất hiện trên mâm cỗ cùng với cơm trắng, xôi, gà, heo, vịt, dê…
Sau khi cúng xong, người Pa Cô thường ăn bánh cùng với một số món chấm như nước mắm hoặc muối dằm ớt xanh. Từng miếng bánh dẻo sóng sánh ánh màu vàng mật ong, thoảng mùi nếp, mùi lá mới với những bùi bùi, ngon, ngọt, đậm đà, cay nồng… hòa quyện vào nhau tạo nên một hương vị đủ đầy, độc đáo, thơm ngon đầy chất hoang dã riêng có của núi rừng.
Phạm Hiền
Theo bienphong
Bánh gio Đắc Sở, đậm hồn vị quê hương
Nghề làm bánh gio có truyền thống từ lâu đời ở xã Đắc Sở (Hoài Đức, Hà Nội), theo đó cứ vào dịp Tết Nguyên đán, mọi gia đình trong xã đều cùng nhau làm bánh gio để cúng tổ tiên và thưởng thức.
Theo người dân trong xã, bánh gio là loại bánh truyền thống được làm từ những sản vật nông nghiệp, điều đặc biệt làm nên thương hiệu cho loại bánh gio của làng là bởi vị thanh mát khác hẳn bánh ở những vùng miền khác.
Để cho ra những chiếc bánh ngon phải trải qua nhiều công đoạn công phu và tỉ mỉ, mỗi công đoạn cần có độ chính xác nhất định (Ảnh: P.N)
Trước kia, nghề làm bánh gio bắt nguồn từ xã Đắc Sở, sau đó nghề được truyền sang các xã lân cận. Thời đó, hầu hết các hộ dân trong làng đều làm bánh để bán ra thị trường nhưng ngày nay làm bánh đem lại lợi nhuận thấp hơn làm nông nghiệp, trồng cây ăn quả bởi lẽ đó ở làng số hộ sản xuất bánh để bán còn lại rất ít.
Chia sẻ về cách làm loại bánh này, ông Nguyễn Huy Sơn (người sản xuất bánh với số lượng lớn cung cấp ra thị trường) cho biết, mặc dù cũng được làm từ gạo nếp nhưng bánh gio lại có cách làm hoàn toàn khác với các loại bánh hiện nay. Bánh được làm từ gạo nếp, sau đó đem ngâm với nước gio khi đủ thời gian thì được đem luộc.
Với sự công phu, tỉ mỉ đó, tạo nên sự khác biệt rất riêng cho bánh gio Đắc Sở (Ảnh: P.N)
Với những công đoạn nghe tưởng chừng khá đơn giản nhưng để làm ra được chiếc bánh gio ngon đúng vị thì cần quá trình chuẩn bị, làm bánh khá công phu và tỉ mỉ, mỗi công đoạn cần có độ chính xác nhất định. Bắt đầu từ công đoạn tạo nước tro, ngâm rửa lá rong, ngâm gạo đến gói bánh và luộc bánh, nhưng quan trọng nhất là khâu làm nước tro và ngâm gạo.
Cứ vậy, ngâm gạo sao cho đủ quy định, thay nước như thế nào để khi luộc bánh không nát, cho ra những chiếc bánh dẻo thơm,... là những bí quyết được người làm bánh gio ở nơi đây gìn giữ từ bao đời. Gạo được chọn làm bánh là loại gạo nếp cái hoa vàng, không lẫn tẻ bởi lẽ nếu làm bánh chỉ lẫn chút ít gạo tẻ, bánh khi đó sẽ không còn vị dẻo thơm, ngon ngọt vốn có.
Theo những người dân trong làng, công đoạn quan trọng để tạo nên màu nâu vàng, phảng phất hương vôi, cùng với vị ngọt thơm mát đặc trưng của bánh là từ vỏ, quả thầu dầu, vỏ bưởi, cây vừng được đem đốt thành tro. Thứ tro ấy được người dân trộn đúng liều lượng với nước vôi theo tỷ lệ nhất định và sau đó gạo được ngâm trong loại nước này khoảng từ 5-7 giờ.
Những chiếc bánh được gói cẩn thận trước khi đun 5-6 giờ (Ảnh: P.N)
Chẳng những vậy, lá dong được chọn là những lá tẻ tươi xanh, to bản và lành lặn, rửa sạch được đem luộc cho phai bớt mùi hăng rồi lau thật khô trước khi gói. Gạo để vào lòng chiếc lá phải gọn, đều, rồi quấn lá và bẻ mép ở hai đầu bánh cho thật khít, cân đối để chiếc bánh chín bóc ra vừa có độ thơm, dẻo và còn bắt mắt.
Bánh gio nơi đây được gói với nhiều hình dáng khác nhau như: hình vuông, hình trụ (giống bánh giò) hay gói dài (như bánh tẻ),... Điều đặc biệt, từ xưa người ta vẫn thường dùng mật mía để ăn kèm với bánh gio. Với vị ngọt nhẹ và thơm tự nhiên của mật mía hòa quyện cùng hương thơm, vị dẻo của gạo nếp đã tạo nên một hương vị đặc biệt và trở thành nỗi nhớ riêng của người dân Đắc Sở trong mỗi dịp Tết đến, xuân về.
H. Nguyễn - P. Ngân
Theo laodongthudo
Việt Nam có ba loại bánh truyền thống suốt ngày bị nhầm với nhau chỉ vì lý do này Chạy xe ngang thấy hàng bánh gói lá chuối hình chóp nhọn quen thuộc, bèn dừng lại nói "cô ơi bán cho con chiếc bánh giò" thì nhận lại sự ngỡ ngàng trên mặt người bán... Lá chuối là món dùng để gói bánh phổ biến ở Việt Nam, đó là một chuyện. Tuy nhiên hình dạng các loại bánh lại là chuyện...