6 phim Hollywood được “remake” xuất sắc không thua gì bản gốc
Không chỉ phim Việt, Trung hay Hàn mới có bản phim remake (làm lại) hay, màn ảnh Hollywood cũng có không ít tác phẩm làm lại xuất sắc không thua kém gì bản gốc.
Nhắc đến trào lưu làm phim remake, nhiều khán giả chắc hẳn sẽ chau mày và thắc mắc rằng, có gì hay ho để khai thác lại một tựa phim có sẵn? Điện ảnh thế giới nói chung và Hollywood nói riêng đã chứng kiến thất bại thảm hại của không ít bản làm lại. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là không có nhà làm phim nào thành công khi “xào nấu” lại những tác phẩm kinh điển đã đi sâu vào lòng người. Dưới đây là những minh chứng cho thấy, không những làm tốt, các bản phake có khi còn xuất sắc vượt xa cả bản gốc.
Invasion Of The Body Snatchers ( Cuộc Xâm Lăng Của Người Nhân Bản)
Trong những năm 1950, khi kỹ xảo vẫn chưa được áp dụng nhiều và cách làm phim vẫn còn khá thô sơ thì những tựa phim kinh dị như Invasion Of The Body Snatches (1956) đã được đánh giá là tốt. Tuy nhiên, phải đến khi bản remake năm 1978 ra đời, tựa phim này mới được thay da đổi thịt. Từ một bộ phim kinh dị thuần túy, Invasion Of The Body Snatches đã trở nên ý nghĩa hơn nhờ chứa đựng những ẩn dụ xã hội sâu sắc đằng sau vỏ bọc là những phân cảnh máu me.
Phải đến bản remake năm 1978, “Invasion Of The Body Snatches” mới thật sự thay da đổi thịt.
The Thing ( Quái Vật Hồi Sinh)
Nếu như bản gốc The Thing from Another World (1951) chỉ mới dừng ở việc tạo ấn tượng tốt cho khán giả thì bản remake năm 1982 với tựa đề The Thing lại được xếp vào “hàng ngũ” những bộ phim kinh dị giả tưởng hay nhất mọi thời đại. Cho đến bây giờ, hiếm có tuyệt tác nào có thể vượt qua được The Thing trong khoản tạo ra một bầu không khí chết chóc, căng thẳng đến nghẹt thở và hiệu ứng kinh dị đến ám ảnh. Năm 2011, tựa phim này lại được làm lại một lần nữa nhưng cái bóng của phiên bản cũ lớn đến nỗi phiên bản phim mới nhất bị lu mờ dù áp dụng kỹ xảo hiện đại và nước phim “xịn” hơn.
Ba phiên bản “The Thing” – Phiên bản năm 1982 của John Carpenter vẫn đáng sợ nhất.
Đạo diễn John Carpenter, người cầm trịch The Thing 1982 đã khai thác câu chuyện về một nhóm thám hiểm bị kẹt ở vùng núi tuyết hiểm trở, bị tấn công bởi những ký sinh trùng ngoài hành tinh có khả năng biến hình kì dị dưới một góc nhìn mới, kịch tính và kinh dị hơn nhiều.
Phiên bản Scarface năm 1983 đã đưa bản gốc đen trắng năm 1932 lên một tầm cao mới. Nếu Scarface năm 1932 được đánh giá là tác phẩm kinh điển của màn ảnh Hollywood khi lần đầu tiên khai thác kỹ lưỡng những khía cạnh bạo lực của các băng đảng xã hội đen, thì bản remake năm 1983 lại trở thành một hiện tượng văn hóa, một dấu ấn không thể quên của điện ảnh thế giới trong những năm 1980. Đồng thời, bộ phim còn đưa Al Pacino với vai diễn Tony Montana trở thành cái tên có sức ảnh hưởng không kém gì Michael Corleone trong loạt phim The Godfather (Bố Già) lừng danh trong suốt hơn 30 năm qua.
“Mặt Sẹo” 1932 và “Mặt Sẹo” 1983.
Ocean’s Eleven (11 Tên Cướp Thế Kỉ)
Ocean’s Eleven (2001) là bản phim remake dựa trên tựa phim cùng tên (bản gốc sản xuất năm 1960) gây được tiếng vang lớn tại kinh đô điện ảnh Hollywood. Đã 17 năm trôi qua kể từ khi bản phim làm lại này ra mắt, thế nhưng khán giả vẫn không thôi thổn thức khi nhớ về màn trình diễn xuất sắc của dàn sao cực khủng như George Clooney, Julia Roberts, Matt Damon hay Brad Pitt trong phim.
“Hội trộm cướp” những năm 1960 và 2001.
Sự thật thì giữa phiên bản 2001 và 1960 không có nhiều sự liên hệ, chỉ có vai Danny Ocean của George Clooney có cái tên giống với nhân vật ở bản gốc. Việc xây dựng một kịch bản mới mẻ, thông minh, thêm thắt những món đồ công nghệ vào các cảnh quay cùng diễn xuất đỉnh cao của các tài tử nổi tiếng… đã giúp Ocean’s Eleven 2001 nhận được sự yêu mến của đông đảo người hâm mộ.
True Grit (Báo Thù)
Năm 1969, True Grit, bộ phim kể về hành trình đi tìm công lý của cô bé Mattie Ross sau khi người cha bị sát hại dã man lên sóng màn ảnh Hollywood đã khiến khán giả nhớ mãi không quên vì cốt truyện vô cùng ám ảnh. Phiên bản này là một thách thức không nhỏ đối với các nhà làm phim nếu muốn đem đến một bản remake xuất sắc, ít nhất là xuất sắc như bản gốc.
Thời gian đã khiến cô bé Mattie Ross trở nên khác lạ đến nhường này đây.
True Grit năm 2010 đã làm được điều này. Bằng lối kể chuyên nhẹ nhàng nhưng vẫn tạo được những đoạn cao trào, thắt nút mở nút một cách duyên dáng, anh em đạo diễn nhà Coen đã đưa đến một True Grit với hơi thở mới. Đó là lí do mà bộ phim dành được 10 đề cử giải Oscar năm 2011.
A Star Is Born ( Vì Sao Vụt Sáng)
Hiếm có bộ phim nào được làm lại đến tận 4 lần như A Star Is Born (1937), điều này đã chứng minh sức sống mãnh liệt của tựa phim này. Mỗi phiên bản remake sẽ đem lại cho khán giả những ấn tượng khác nhau. Bản remake vừa công chiếu gần đây cũng vậy. Thay vì lu mờ trước “những người tiền nhiệm”, bộ phim đã tỏa sáng theo cách riêng của mình.
Bốn phiên bản của “A Star Is Born”.
Lady Gaga và Bradley Cooper đã đem lại hình ảnh Ally và Jackson Maine vừa cũ vừa mới, đã hát trọn vẹn được những nốt mà chưa phần phim nào trước đó từng chạm tới. Sự thăng hoa trong diễn xuất của Lady Gaga đã giúp câu chuyện tình yêu cảm động trong ngành công nghiệp âm nhạc được chuyển tải một cách trọn vẹn, ám ảnh khôn nguôi.
Trailer “A Star Is Born”.
Những tựa phim trên đã chứng minh một điều rằng, phim remake dù dựa trên những nguyên liệu cũ nhưng vẫn sẽ đủ sức mang lại một món ăn tinh thần với hương vị mới mẻ, cuốn hút cho khán giả. Không chỉ vậy, “món ăn” mới đó còn có sức sống bền bỉ qua thời gian, không bị lu mờ bởi cái bóng quá lớn của bản gốc.
A Star Is Born hiện đang được chiếu tại các rạp trên toàn quốc.
Theo Trí Thức Trẻ
A Star Is Born: Khi Bradly Cooper kể chuyện bằng âm nhạc
"A Star Is Born" (tựa tiếng Việt: Vì sao vụt sáng) được ngôi sao Hollywood Bradly Cooper làm lại với hơi thở thời đại khiến khán giả bần thần. Phim đầu tư công phu về âm nhạc, cùng sự diễn xuất tươi tắn, nhiều năng lượng của Lady Gaga bên cạnh vẻ từng trải (cả trong diễn xuất và tính cách nhân vật) của nam tài tử Bradly Cooper.
Xuất hiện đầu tiên vào năm 1937, A Star Is Born ngay lập tức ghi điểm trong lòng khán giả và trở thành bộ phim kinh điển. Trước phiên bản được làm lại công chiếu vào năm nay, bộ phim này từng được remake 2 lần vào năm 1954 và 1976. Dù bị áp lực của lần remake năm 1956 quá nổi tiếng và năm 1976 được cho là thất bại, bản phim của người đàn ông lịch lãm Bradly Cooper được giới chuyên môn đánh giá cao, IDMb xếp hạng 8,6/10...
Bộ đôi diễn viên mới của Hollywood
Trên nền câu chuyện năm xưa, khán giả rất phấn khích vì được đắm chìm trong những cảm xúc tươi mới mà Bradly Cooper cùng các cộng sự của mình mang lại, thú vị với ngôn ngữ của cuộc sống hiện đại, thời của nền giải trí công nghệ khi Ally không chỉ tỏa sáng trên sân khấu mà sức hút của cô được khẳng định qua clip đăng trên YouTube có hàng triệu lượt người xem...
A Star Is Born - một ngôi sao được sinh ra - là khi cái đốm sáng ấy được một người nhìn thấy rồi cùng thắp lên cho rực rỡ. Vì người ấy không thể để cái đốm sáng đẹp đẽ lụi tàn. Ally ước mơ trở thành một ca sĩ nhưng suýt phải từ bỏ ước mơ ấy để an phận với công việc hầu bàn và hát ở những quán bar nhỏ. Một nền công nghiệp giải trí ngày càng chú trọng phần nhìn thì việc Ally "có một giọng hát rất tuyệt nhưng ngoại hình chưa tuyệt" khiến cho bố cô, một người luôn muốn con gái mình nổi tiếng, cũng cay đắng mà thốt rằng: "Không phải ai có giọng hát hay cũng trở thành ca sĩ nổi tiếng".
Ally rụt rè trong lần đầu tiên lên sâu khấu và sau đó đã trở thành ngôi sao
Như một định mệnh, Jackson - một ca sĩ rock-country nổi tiếng - không muốn trở về nhà sau một đêm diễn mà muốn vào bar tìm vui với rượu. Ở đây, anh đã gặp một Ally ngộ nghĩnh, đầy ấn tượng với màn trình diễn bài hát Lavie En Rose. Rất nhanh chóng, Jack dẫn Ally ra sân khấu lớn - nơi đó mới thực sự là chỗ của cô - để trở thành một ngôi sao. Cooper, trong vai trò đạo diễn, không mất công diễn tả quá trình Ally trở thành ngôi sao, bởi một khi bạn sinh ra để tỏa sáng thì tự khắc mọi thứ sẽ hiệp lực để điều đó trở thành. Anh tập trung khắc họa mối quan hệ của các nhân vật, quan điểm về nghệ thuật.
Khi Jackson và Ally bắt được tần số của nhau, tưởng chừng hai đồ thị sẽ gặp nhau mãi mãi, ngờ đâu ngày càng cách xa. Yêu Ally là Jackson có một mái nhà ấm áp để trở về, có một tri kỷ để kể chuyện đời mình, thế nhưng, nỗi cô đơn trong sâu thẳm tâm hồn anh là không gì có thể san lấp. Đó là cảm nhận của riêng anh, chẳng ai thấu hiểu được, Jackson cũng không thể lý giải. Nỗi cô đơn mỗi ngày kéo Ally xa anh hơn một chút, dù rằng tình yêu của hai người dành cho nhau không sứt mẻ một li.
Jack và Ally thời hát ca mặn nồng
Nếu Ally mỗi ngày bước một cao trên danh vọng thì Jackson mải ngập ngụa trong rượu và chất kích thích. Hình ảnh hai người càng lúc càng đối lập: Khi Jackson cầm đàn ra sân khấu trong hàng nghìn khán giả reo hò thì Ally đang chạy bàn và hát hò ở một "xó xỉnh" và khi Ally rực sáng bước lên bục nhận giải Grammy thì Jack là một tay nát rượu xiên xẹo bước đến cạnh vợ mình rồi ngã gục ở sân khấu. Một nỗ lực cuối cùng của Jack để giữ được kết nối của mình với vợ là vào trại cai rượu nhưng đành bất lực, cái bóng ma cô đơn cứ ám ảnh anh và dẫn anh đi tìm cái chết. Nỗi cô đơn của Jack phải chăng là cái cô đơn mà một ngôi sao phải mang vác?
Ally ra đời mang định mệnh trở thành ngôi sao. Có một người đàn ông đến chắp cánh cho cô, sánh đôi với cô trên một đoạn đường rồi lặng lẽ rời xa và để lại một nỗi trống vắng. Bài hát I'll never love again cuối phim là phút giây đầy nước mắt, cho cả Ally và khán giả. Jackson đột ngột đến bên đời Ally, tán tỉnh liên hồi, yêu đương cho bằng hết trăm năm thì sau anh cô còn yêu ai được nữa? Và dù, cách Ally trở thành ngôi sao hoàn toàn khác Jack nhưng có lẽ quan điểm của anh, đại loại: Khi ta đã đặt câu hỏi cho nơi sâu nhất của tâm hồn rằng ta muốn làm gì, hãy nói thành thật với khán giả điều mình muốn trở thành chứ không phải điều khán giả muốn mình trở thành thì khi đó mới đi được bền lâu... là điều Ally khó quên. Còn ai như Jack ở trên đời nhìn Ally như chính cô, khơi gợi điều có sẵn trong cô chứ không nhào nặn cô theo hình ảnh người khác mong muốn, cho nên khán giả có lý do để tin rằng sau Jack, Ally sẽ "never love again".
A Star Is Born của Cooper không chiều chuộng những khán giả ưa chuộng cảm giác ngọt ngào đến tận cuối. Anh cho khán giả choáng váng với một thứ rượu hạng nặng qua những trò tán tỉnh tình tứ của Jack dành cho cô nàng của mình rồi bỗng nhiên dựng một bức tường ngăn cách giữa họ, khiến người xem cảm thấy ngột ngạt đến tức tối.
Đây không phải là một bộ phim âm nhạc nhưng âm nhạc đã tràn ngập trong phim và là phương tiện chính, cực kỳ hiệu quả để Cooper kể chuyện. Những bài hát với giai điệu và lời lẽ quá hay được đặt vào đúng chỗ để đưa khán giả thăng hoa trong sự vui sướng (như khi Jack và Ally song ca Shallow) rồi lại như bị xịt một thứ hóa chất làm cô đặc không khí xung quanh khi Ally một mình nức nở hát I'll never love again.
Bradly Cooper trở thành đạo diễn bộ phim này, cũng là bộ phim đầu tay của anh, trong một duyên cớ đặc biệt, và đã cất được tiếng nói riêng so với các bản phim trước đó. Các bài hát trong phim là một điểm sáng, hoàn toàn có thể trở thành những ca khúc độc lập. Giới chuyên môn đánh giá nhiều khả năng A Star Is Born sẽ giành được một trong các giải Oscar năm nay. Chàng diễn viên 4 lần được đề cử Oscar là người đóng các vai trò quan trọng của bộ phim: đạo diễn, thủ vai chính (Jackson), đồng viết kịch bản và viết nhạc. Lần đầu tiên đóng vai chính, với Ally, Lady Gaga tiếp tục khẳng định mình là một tài năng và có thể đã đứng một ví trí được chú ý nhiều hơn trong lãnh địa điện ảnh.
Dù vừa chỉ đạo diễn xuất, vừa vào vai chính nhưng Bradly vẫn trình diễn rất ngọt ngào
A Star Is Born đang chiếu tại các rạp trên toàn quốc. Phim có sự tham gia của các diễn viên: Bradly Cooper, Lady Gaga, Sam Elliott, Andrew Dice Clay, Dave Chappelle
Theo thegioitiepthi.vn
Review 'A Star Is Born': Một bản tình ca buồn chạm đến trái tim người xem từ những điều nhỏ nhặt A Star Is Born chính là bản tình ca nhiều cung bậc cảm xúc cho tháng 10 này! Ngay từ lúc vừa "tung" trailer, A Star Is Born đã thu hút được rất nhiều sự chú ýcũng như ủng hộ từ phía khán giả. Mặc dù đây đã là bản remake lần thứ 3 của bộ phim, thế nhưng trên tất cả, A...