6 món ăn “chị đại” thời bao cấp nay trở thành đặc sản
Nhắc đến các món ăn thời bao cấp là gợi về một thời gian khổ và đầy khó khăn. Tuy nhiên ngày nay, có một số món lại trở thành đặc sản được nhiều người ưa chuộng.
Trên thực tế, các “đặc sản chị đại” thuộc về quá khứ cũng có sức hấp dẫn đến từ những điều rất riêng.
1. Tóp mỡ
Tóp mỡ chính là mỡ lợn được rang lên đến khi khô kiệt. Thời bao cấp, nhà nào có chút tóp mỡ trên mâm cơm thì đã là rất quý và sang. Món ăn này thường được rim với mắm, sốt cà chua ăn dần hoặc xào cùng dưa chua.
Ngày nay, tóp mỡ được người Hà Nội săn lùng dù giá bán khá đắt đỏ.
Tóp mỡ vừa có độ giòn, vừa béo ngậy, thơm ngon và đặc biệt dễ bảo quản. Tóp mỡ đem chưng với mắm tép hoặc mắm tôm rất dậy mùi và tốn cơm.
Thời gian gần đây, người Hà Nội đang “rộ” lên tìm mua tóp mỡ dù loại thực phẩm này có giá đắt gấp 4, gấp 5 lần so với thịt lợn. Tóp mỡ ngâm nước mắm đã trở thành món ăn kèm hoặc dùng để chấm rau luộc trong những mâm cơm cầu kỳ đãi khách.
Bì trâu xào rau muống trong những ngày bao cấp thực sự là một đặc sản chỉ nhà giàu mới có. Đến nay, món ăn này được hầu hết mọi người ưa thích vì đơn giản, dễ làm và hương vị thì không lẫn vào đâu được.
Thậm chí ở Hòa Bình hay Sơn La, da trâu còn được coi là đặc sản kỳ lạ và hút khách. Bà con người Mường, người Thái sẽ hun khói da trâu vài tháng cho đến khi đen sì, cứng và khô lại. Khi muốn chế biến món ăn, họ đem da trâu thái nhỏ, ướp với các loại gia vị và thêm nguyên liệu phù hợp.
Người vùng cao đã khéo léo chế biến da trâu thành nhiều món ăn hấp dẫn.
Du khách đến Sơn La, nếu may mắn được nếm thử nộm da trâu thì sẽ thấy vô cùng thích thú. Món ăn của người Thái rất giòn, có đủ vị thanh dịu, vị hăng của nước măng chua, vị bùi của lạc rang và vị cay của mắc khén.
3. Hoa chuối
Hoa chuối được coi là một trong những món ăn bao cấp khó quên. Hoa chuối đồng bằng có màu tím, được sinh ra để gắn với những món ăn bình dị mà không kém phần ngon miệng.
Video đang HOT
Nộm hoa chuối phổ biến ở cả hai miền Nam, Bắc.
Ngày nay, phổ biến nhất phải kể tới nộm hoa chuối ở miền Bắc, còn miền Nam gọi là gỏi bắp chuối. Món nộm là sự tổng hòa của đủ vị chua, cay, ngọt, mặn, với vị hơi chát của hoa chuối, hòa cùng cái giòn béo của tai heo, bùi ngậy của lạc, thanh mát của rau thơm. Ngoài ra, hoa chuối còn được tận dụng làm canh, bún bung, hầm chân giò… hoặc làm rau ăn kèm đều rất ngon.
4. Rau tập tàng
Tập tàng là tên gọi chung của một tập hợp nhiều loại rau như: rau má, rau dền gai, rau sam, mã đề, mồng tơi, bồ ngót,… có thể tìm thấy ở vườn nhà hoặc bất kỳ bờ bụi nào. Ngày trước, thứ rau này được nấu cùng với cua đồng, tạo nên món canh có hương vị tuyệt vời.
Hiện nay, tập tàng không chỉ xuất hiện ở nông thôn mà còn là món “khoái khẩu” của người thành thị với hai cách chế biến quen thuộc là luộc và nấu canh.
Rau tập tàng là hỗn hợp của nhiều loại rau khác nhau.
Ăn rau tập tàng luộc phải có nước chấm ớt tỏi giã nhuyễn hoặc mắm “lèo” mới đúng điệu. Thành phần tạo nên mắm “lèo” gồm có mắm tôm, tóp mỡ, hành phi, đậu phộng, mè… Hương vị của mỗi loại rau sẽ hòa quyện ngay trong miếng đầu tiên, khiến người thưởng thức phải ấn tượng và nhớ mãi.
Nấu canh tập tàng cũng không hề đơn giản. Vì tập tàng là tập hợp nhiều loại rau khác nhau nên đầu bếp phải biết loại nào là chín nhanh, loại nào lâu chín để cho vào nồi hợp thời điểm. Về dinh dưỡng, rau tập tàng là món ăn cung cấp nhiều chất xơ, khoáng và vitamin.
Tép rang khế chua là món ăn mà hầu như gia đình nào cũng biết. Cả hai nguyên liệu đều dễ kiếm, chế biến nhanh mà lại rất đưa cơm. Con tép đồng nho nhỏ rang cùng khế vừa có vị chua, vừa có vị ngọt.
Tép rang khế chua có công đoạn chế biến không quá phức tạp.
Ngày nay, món ăn vẫn rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, tép đồng không dễ kiếm như xưa nên khó để thưởng thức lại hương vị của quá khứ.
6. Ngọn sắn muối
Thời bao cấp, sắn, ngô được trồng nhiều vô kể. Chính vì gạo thiếu, rau khan nên người dân đã tận dụng ngọn sắn non đem muối chua. Món ăn này khá ngon, có chút ngái ngái, nồng nồng và vị chua thanh đậm đà.
Giờ đây, khi nhắc đến ngọn sắn muối, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến đặc sản nổi tiếng của Phú Thọ. Ngọn sắn sau khi hái về sẽ được ngâm qua cho bớt nhựa rồi vò nát, nhưng chú ý không để vụn rau.
Tuy rau sắn nhìn không được đẹp mắt nhưng vô cùng thơm ngon.
Cách muối rau sắn tương tự cách muối dưa cải nhưng việc chế nước, chế muối để cho ngon thì đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm và sự khéo léo. Một số người kì công, hàng ngày còn bê vại rau sắn ra phơi nắng cho nhanh ngấu. Tầm 5 đến 7 ngày, rau sắn ngấm muối là ăn được.
Ngọn sắn có thể ăn không với cơm hoặc chế biến cùng các nguyên liệu như cá, chân giò, thịt hoặc lạc. Mỗi món ăn lại có hương vị đặc trưng riêng rất hấp dẫn.
Theo khám phá
Việt Nam chính là nhân tố vàng trong làng tái chế: Món nấu "hỏng" cũng biến thành đặc sản vạn người mê
Cơm tấm, tóp mỡ, cơm cháy mỡ hành... đều là những món ngon thần thánh với mọi thế hệ người Việt. Nhưng lịch sử của nó lại bắt nguồn từ những tai nạn trong nhà bếp.
Người Việt có thành ngữ "lóng nga lóng ngóng, xôi hỏng bỏng không" để chỉ sự vụng về, quýnh quáng khiến mọi việc chả đi đến đâu. Ở mọi khía cạnh cuộc sống, vụng về có thể phá hỏng tất cả, nhưng trong ẩm thực, người Việt lại mở khóa sự sáng tạo vô biên từ những tai nạn nấu nướng. Rất nhiều đặc sản thơm ngon đã ra đời từ sự "chữa cháy" cho bữa ăn hàng ngày. Vì thế đừng ngại nếu bạn vụng nấu ăn. Ông bà chúng ta ngày xưa cũng vụng chả kém, quan trọng là cái khó ló cái khôn mà thôi!
Cơm cháy
Cơm cháy - món ăn có nguồn gốc từ tai nạn nấu cháy khét lại được vạn người mê.
Với chiếc nồi cơm điện hiện đại, nấu cơm cháy còn khó hơn cơm dẻo. Nhưng ngược về thời ông bà mình, khi người ta vẫn nấu cơm thủ công bằng nồi gang và than củi, lượng cơm cháy ở đáy nồi còn nhiều hơn cơm chín. Chỉ cần quá lửa một tí, hoặc ko kịp xới cơm đều tay thôi, phần cơm dưới đáy sẽ cháy và bám vào nồi, bày lên mâm không đẹp mắt tí nào. Nhưng trẻ con lại rất thích cơm cháy, vì dù nó không dẻo nhưng lại giòn giòn xốp xốp, nhấm nháp rất thích. Từ đó, cơm cháy gia nhập hàng ngũ những món ăn vặt thần thánh của ẩm thực Việt.
Phiên bản cổ điển nhất của cơm cháy có lẽ là ăn cùng mỡ hành. Bản thân cơm giòn, xốp, trộn với mỡ hành béo béo đã là một sự kết hợp trên cả tuyệt vời. Tùy theo từng đặc sản vùng miền, mà cơm cháy có phiên bản khác nhau. Người miền Nam có thể ăn cơm cháy với mỡ hành, muối ớt, chà bông, gà nướng lu. Người miền Trung thì thưởng thức cơm cháy kho quẹt. Ở miền Bắc thì có đặc sản cơm cháy Ninh Bình với ruốc và tôm khô. Tuy nhiên, bản chất cơm cháy vẫn không đổi: Nó là phần cơm được làm cháy bởi than củi, sau đó có thể phơi khô, nên giòn xốp rôm rốp mà không hề ngán. Cách thức chế biến này vượt trội hơn hẳn những món chiên rán thông thường, khiến cơm cháy từ một tai nạn trở thành món ăn vặt độc nhất vô nhị trong lòng người Việt.
Thịt đông
Thịt đông trứ danh cũng là kết quả từ một "tai nạn" không ai ngờ tới.
Chẳng phải tự nhiên mà thịt đông trở thành đặc sản ngày Tết ở miền Bắc. Sống ở cái nền nhiệt khắc nghiệt nhất Tổ quốc, chúng ta không thể tránh khỏi những sơ xảy khi nấu ăn mùa đông. Có giả thuyết cho rằng ngày xưa, người ta thường nấu canh chân giò để nạp năng lượng cho ngày Tết. Nhưng bát canh để ở ngoài lâu quá, giữa trời lạnh, liền đông lại và tạo ra món thịt đông bây giờ.
Nhìn vào nguyên liệu của thịt đông, sẽ thấy có chân giò, mọc nhĩ, nấm hương được nấu thật nhừ, các nguyên liệu đông lại hoàn toàn từ collagen của da và mỡ lợn chứ chẳng cần phụ gia nào cả. Vì thế thịt đông rất thơm và có vị ngon ngọt tự nhiên, chứ chẳng hề khó ăn như ấn tượng ban đầu chút nào. Mùa Tết miền Bắc, xới một bát cơm nóng, gắp miếng thịt đông bỏ vào, thưởng thức cái béo ngậy tan chảy từ từ của nước canh giò heo, hòa với sần sần của bì và mộc nhĩ - đấy là cái thú chẳng thể nào thay thế của những người con miền Bắc.
Cơm tấm
Những hạt tấm được xem là "sản phẫm lỗi" lại làm nên món ngon.
Nếu thịt đông là niềm tự hào của miền Bắc nói chung và người Hà Nội nói riêng, thì ở đầu bên kia của đất nước, khó mà tự nhận mình là người vùng Tây - Nam nếu bạn không ăn sáng bằng cơm tấm.
Là vựa lúa lớn nhất Việt Nam, gạo có vai trò cực kì quan trọng trong ẩm thực phía Nam. Tuy nhiên dù có nhiều gạo mấy cũng không tránh được những hạt gạo lỗi. Cơm tấm ra đời từ quá trình sàng gạo, những hạt bị bể, ngắn và nhỏ, sẽ rơi khỏi nia và bị xem là "gạo xấu", nấu lên không được dẻo mịn. Nhưng chính vì không dẻo mịn, mà lại tơi và xốp, nên cơm tấm đem lại hương vị rất riêng và cuốn hút khi kết hợp với mỡ hành béo ngậy. Ban đầu, cơm tấm thường chỉ đi với mỡ hành hoặc "sang" lắm là thêm tí tóp mỡ giòn giòn. Sau này, món ăn nhà nghèo mới dần dần được "lên đời". Ở miền Tây người ta thêm vào những lát sườn thái mỏng, nướng bằng than hồng thơm phức đúng chuẩn ẩm thực miệt vườn của xứ này. Đến khi du nhập vào Sài Gòn phồn hoa, cơm tấm lại càng đa dạng và "giàu có" về nguyên liệu hơn.
Cơm Tấm ở Sài Gòn là sự phản ánh chân thực những nền văn hóa đa dạng tại đất này. Đĩa cơm tấm có chả trứng ảnh hưởng từ nghệ thuật thịt nguội và pate của người Pháp, có thể có xíu mại và lạp xưởng của người Hoa, dẫu vẫn giữ nguyên những hồn cốt mộc mạc của người Việt như mỡ hành tóp mỡ, bì lợn và nước mắm chua ngọt.
Mỡ lợn đông
Mỡ heo lại là món "đầu thừa đuôi thẹo" được tái chế.
Cái thời mà heo còn ăn cám cỏ, chưa dùng thuốc tăng trọng hay các công nghệ làm nạc cao cấp, thịt lẫn với mỡ rất nhiều. Người ta không biết làm gì với lượng mỡ thừa, bèn cho vào hũ cất đi. Thời ấy nhà ai cũng có một hũ mỡ lợn, đựng trong lọ sành vàng nâu với họa tiết men xanh, treo lủng lẳng trên gian bếp hoặc cho vào tủ khóa lại. Không để ý, mỡ lợn sẽ đông lại và tạo ra món mỡ đông trắng ngà, béo ngậy và dẻo dẻo "thần thánh".
Mỡ nước có thể ngán, chứ mỡ lợn đông rồi thì vô cũng ngọt lành và tinh tế. Bởi vì để đông tự nhiên, những cặn bẩn của mỡ lợn thường đóng xuống dưới cả (bạn để ý trong hũ mỡ lợn ngày xưa, đấy thường có cợn ngà ngà hoặc đen). Phần mỡ trắng tươi thơm ngon ở trên sẽ được các bà các mẹ tận dụng để nấu ăn.Trẻ con nhà nghèo ngay xưa chỉ cần bát cơm nóng, một thìa mỡ đông và ít nước mắm chua ngọt dằm ớt là ăn thút thít.
Quả nhiên không có người không biết nấu ăn, chỉ có người không biết... sáng tạo. Ẩm thực Việt Nam vẫn luôn ghi dấu bằng nét mộc mạc rất duyên này, khi chẳng cần sơn hào hải vị, người ta vẫn khám phá ra những món ngon nức tiếng từ chính món "đầu thừa đuôi thẹo" trong nhà bếp.
Theo Trí Thức Trẻ
Ở Gia Lai có món phở khô trứ danh, tôi học được cách làm, cả nhà ai cũng khoái! Hễ đến Gia Lai là tôi sẽ luôn luôn ăn món phở khô này. Nay biết cách làm, tôi có thể tự làm bất cứ lúc nào rồi! Bạn cần chuẩn bị những nguyên liệu sau để nấu món phở khô : A/ Nước súp: 700g xương đuôi heo 250g thịt nạc heo xay 1 củ hành tây, 2 lít nước 20g đường...