3.000 tấn đường lậu đe dọa ngành mía đường
Những thách thức từ gian lận thương mại, buôn lậu, việc thực thi Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) từ đầu năm 2020 đang ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngành mía đường. Nhiều doanh nghiệp đã phải hạ mục tiêu kinh doanh niên vụ 2019 – 2020.
2 năm nhập lậu 3.000 tấn đường
Báo cáo tại hội nghị bàn các giải pháp chống buôn lậu đường cát và tháo gỡ khó khăn cho ngành mía đường Việt Nam tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh mới đây, ông Trương Văn Ba – Phó Chánh văn phòng – Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo Chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (389) quốc gia cho biết, tính từ đầu năm 2018 đến hết tháng 9/2019, các lực lượng chức năng đã kiểm tra, xử lý 876 vụ buôn lậu đường, xử phạt hành chính trên 1 tỷ đồng, thu giữ hơn 3.000 tấn đường vi phạm trị giá hơn 12,5 tỷ đồng.
Doanh nghiệp và người trồng mía lao đao vì đường nhập lậu. Ảnh: T.L
Lượng đường nhập lậu vào Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ Thái Lan, là 1 trong 4 nước sản xuất đường hàng đầu thế giới. Ngành mía đường Thái Lan được chính phủ trợ giá và giá thành sản xuất của Thái Lan thấp hơn Việt Nam.
Theo ước tính của ông Cao Anh Đương – quyền Chủ tịch Hiệp hội Mía đường Việt Nam, lượng đường nhập lậu từ Thái Lan qua đường bộ Campuchia, vào Việt Nam trong năm qua là khoảng 800.000 tấn.
Chia sẻ thẳng thắn tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Cẩn – Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan, ủy viên Ban chỉ đạo 389 quốc gia đánh giá, các vụ xử lý, kiểm tra chưa tương xứng với lượng đường nhập lậu. Tính toán từ nhu cầu tiêu dùng thực tế (tiêu dùng trực tiếp tới cung cấp nguyên liệu cho ngành bánh kẹo, nước giải khát…), mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 1,8 triệu tấn đường, trong khi vụ mùa 2018 – 2019, trong nước chỉ sản xuất được gần 1,2 triệu tấn, số lượng đường nhập khẩu khai báo qua hải quan chưa đến 100.000 tấn, chứng tỏ lượng đường nhập lậu rất cao.
Theo ông Cẩn, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có một phần buông lỏng quản lý ở địa phương, đặc biệt trên tuyến nổi cộm An Giang, Long An, Tây Ninh. Sự phối hợp chống buôn lậu từ biên giới vào sâu trong nội địa chưa đồng bộ, còn có dấu hiệu tiếp tay cho buôn lậu. Bên cạnh đó, một số nhà máy hệ thống phân phối đường vì lợi nhuận cục bộ chưa thống nhất và đồng tâm chống buôn lậu, nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm, thậm chí còn tiếp tay cho buôn lậu.
Để chống buôn lậu đường, Ban chỉ đạo 389 quốc gia đề ra 5 giải pháp, trong đó, tăng cường lực lượng vùng biên, gắn trách nhiệm của người chỉ huy, tổ công tác và từng địa bàn cụ thể cũng như quan tâm hỗ trợ để phát triển kinh tế địa phương nhất là kinh tế biên giới, hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho người dân đia phương, để từ đó ổn định cuộc sống, không tiếp tay cho buôn lậu.
Video đang HOT
“Sắp tới Ban chỉ đạo 389 quốc gia sẽ có các kế hoạch chuyên đề, chuyên án làm mẫu xử lý các vụ việc. Để công tác chống buôn lậu hiệu quả, công an các tỉnh, lực lượng biên phòng cũng như các cơ quan quản lý chức năng khác cần tăng cường công tác quản lý đấu tranh” – ông Cẩn nói.
Hạ mục tiêu doanh thu, lợi nhuận
Những khó khăn bủa vây đã khiến nhiều doanh nghiệp ngành mía đường phải hạ mục tiêu kinh doanh. Niên vụ 2018 – 2019 (1/7/2018 – 30/6/2019), Công ty CP Đường Kom Tum đặt mục tiêu doanh thu 763,5 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 6,64 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo báo cáo gửi cổ đông mới đây, tổng doanh thu thực tế của công ty niên vụ này mới đạt 333,24 tỷ đồng, bằng 43,64% mục tiêu, lợi nhuận sau thuế đạt 4,526 tỷ đồng, bằng 68,12% mục tiêu.
Lãnh đạo Công ty CP Đường Kom Tum lý giải, các doanh nghiệp mía đường trong nước, trong đó có Đường Kom Tum phải đối mặt với sức ép của đường ngoại nhập lậu giá rẻ, giá bán sản phẩm thấp, trong khi giá thành sản xuất cao.
Do vậy, niên vụ 2019 – 2020 (1/7/2019 – 30/6/2020), Đường Kom Tum giảm mục tiêu kinh doanh với mức doanh thu 486,56 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 6,24 tỷ đồng.
Thuận lợi hơn Đường Kom Tum, niên vụ năm 2018 – 2019, Công ty CP Mía đường Sơn La đạt 890,2 tỷ đồng tổng doanh thu và 63,2 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, cao hơn so với kế hoạch đề ra. Dẫu vậy, bước sang niên vụ 2019 – 2020, Mía đường Sơn La cũng hạ mục tiêu, chỉ còn 863,9 tỷ đồng tổng doanh thu, 25,53 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, lần lượt giảm 2% và 60% so với kết quả thực hiện của niên vụ trước.
Sở dĩ, Mía đường Sơn La phải hạ mục tiêu, theo chia sẻ của lãnh đạo doanh nghiệp này, vì ngành mía đường đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực từ lượng đường nhập lậu tăng mạnh, chủ yếu từ Thái Lan. Trong khi đó, hiện trong nước còn tồn kho khoảng 700.000 tấn đường, doanh nghiệp càng sản xuất nhiều, càng có nguy cơ thua lỗ.
Không riêng Công ty Mía đường Sơn La, hay Đường Kom Tum, hầu hết doanh nghiệp mía đường Việt Nam đều đang đứng trước thách thức rất lớn. Việc xóa bỏ hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường từ ASEAN theo cam kết trong ATIGA đồng nghĩa, từ sau ngày 1/1/2020, đường từ Thái Lan với mức giá chỉ khoảng 8.000 – 9.000 đồng/kg sẽ tràn vào thị trường Việt Nam, thấp hơn so với giá bán của các nhà máy đường trong nước khoảng 2.000 – 3.000 đồng/kg.
Theo tính toán của Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA), nếu năm 2020 thực hiện ATIGA, đường nhập khẩu chính ngạch tràn vào Việt Nam, giá đường trong nước sẽ phải giảm thêm 15 – 20% khiến doanh nghiệp đường trong nước và 33 vạn hộ nông dân chịu tác động lớn. Riêng 22 nhà máy đường có công suất dưới 3.000 tấn/ngày sẽ phải phá sản, đóng cửa do không thể cạnh tranh. Do đó, VSSA kiến nghị Chính phủ xem xét kéo dài thêm thời hạn bỏ thuế suất 3 – 5 năm.
Theo Danviet
Xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc: Ưu tiên qua đường biển
Thủy sản là một trong số ít mặt hàng vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu ở thị trường quan trọng là Trung Quốc.
Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn trong vấn đề xuất xứ hàng hóa, gian lận thương mại. Nếu không có những biện pháp kịp thời, rất có thể chúng ta sẽ mất lợi thế cạnh tranh.
Vướng mắc trong đăng ký danh sách xuất khẩu
Thị trường Trung Quốc từ 2015 đến nay đã nổi lên thành thị trường nhập khẩu thủy sản lớn trên thế giới với nhu cầu đa dạng, chất lượng yêu cầu ngày càng cao. Từ năm 2012, Trung Quốc trở thành thị trường nhập khẩu quan trọng của thủy sản Việt Nam, có mức tăng trưởng nhập khẩu ổn định hơn so với các thị trường khác.
Theo báo cáo của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT), 8 tháng năm 2019, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc đạt 560,9 triệu USD (tăng 5,7%), hiện có 680 doanh nghiệp chế biến thủy sản của Việt Nam trong danh sách được phép xuất khẩu vào Trung Quốc.
Thu hoạch tôm ở một doanh nghiệp tỉnh Bạc Liêu. Ảnh: Thanh Cường
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, hiện nay, xuất khẩu (XK) thủy sản chính ngạch sang Trung Quốc qua đường biển có nhiều thuận lợi, vì chi phí giảm, tính ổn định cao (ít rủi ro về thanh toán), không phải qua nhiều trung gian, cũng như tránh rủi ro về vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng lô hàng.
Tuy nhiên, hiện, các doanh nghiệp XK sang Trung Quốc đang gặp vướng mắc vì việc đăng ký bổ sung các sản phẩm XK của Việt Nam vào Danh sách các sản phẩm được chấp thuận nhập khẩu vào Trung Quốc vẫn còn khó khăn.
Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản đã có nhiều văn bản gửi phía Trung Quốc đề nghị xem xét, bổ sung một số loài như nghêu, cua biển, tôm hùm, ghẹ, bổ sung một số dạng sản phẩm như tôm thẻ, tôm sú ướp đá đã có bằng chứng thông thương, cũng như hướng dẫn hoàn thiện các thủ tục đăng ký để bổ sung các sản phẩm mới như cá rô phi, cá hồi, cá cờ, cá thu... vào danh mục được phép XK sang Trung Quốc, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được phản hồi.
Đó là chưa kể, thời gian qua, các doanh nghiệp Trung Quốc đang chuyển qua mua nhiều hơn tôm Ấn Độ và Ecuador, do các nước này có cỡ tôm lớn, giá rẻ và lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất.
Bên cạnh những khó khăn từ phía thị trường Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam cũng chưa nghiêm túc nhìn nhận đúng thị trường khiến việc XK có đôi lúc bị đình trệ. Theo ông Lê Thanh Hòa - Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, thời gian qua, Hải quan Nam Ninh (Trung Quốc) đã phản ánh về việc một số lô hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu qua các cửa khẩu do cơ quan này phụ trách kèm theo chứng thư giả.
"Trước tình hình này, dự kiến, đoàn công tác của Việt Nam sẽ sang làm việc tại Bắc Kinh thời gian tới để trao đổi với Tổng cục Hải quan Trung Quốc về việc phối hợp cấp chứng thư điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa hai bên và tăng cường phối hợp chống gian lận thương mại" - ông Hòa nói.
Tránh phụ thuộc một thị trường
Theo ông Trần Đình Luân - Tổng Cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NNPTNT), các xung đột thương mại chưa có dấu hiệu kết thúc sẽ tác động không nhỏ tới các chính sách thương mại, cán cân xuất nhập khẩu. Các rào cản kỹ thuật của thị trường XK ngày càng nhiều với các quy định chặt chẽ hơn về truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm; cạnh tranh thương mại ngày càng khốc liệt... cho thấy XK thủy sản trong thời gian tới sẽ đối mặt với nhiều khó khăn.
Một khó khăn khác của ngành là tình trạng nuôi thủy sản vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị, nhất là trong khai thác chưa nhiều. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng (cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão...), bảo quản sản phẩm sau thu hoạch và chế biến sản phẩm thủy sản khai thác còn thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật trong khai thác thủy sản còn hạn chế, tổn thất sau thu hoạch còn cao, chất lượng nguyên liệu thủy sản khai thác giảm do bảo quản, dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp.
Trước những diễn biến khó lường của thị trường Trung Quốc, Hiệp hội Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) kiến nghị Chính phủ cần xây dựng chiến lược XK thủy sản sang Trung Quốc với từng ngành hàng chủ lực để đảm bảo tính ổn định, bền vững, tránh lệ thuộc vào thị trường.
Chính sách thương mại mậu biên vẫn quan trọng trong thương mại với Trung Quốc, vì vậy cơ quan quản lý hai bên cần có chính sách công khai, minh bạch để doanh nghiệp 2 bên nắm bắt, điều chỉnh kịp thời, tận dụng chính sách mậu biên XK sang Trung Quốc.
Doanh nghiệp cần cải thiện điều kiện cơ sở sản xuất thủy sản, nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm sản phẩm XK để đăng ký vào danh sách doanh nghiệp XK sang Trung Quốc, ưu tiên XK chính ngạch qua đường biển, vì cước phí rẻ hơn trước, thuế nhập khẩu chính ngạch giảm và tránh được rủi ro về thanh toán, vì không phải qua nhiều trung gian. Doanh nghiệp cũng cần cập nhật và tận dụng hình thức kinh doanh thương mại điện tử để chào hàng tại Trung Quốc, vì thương mại điện tử đang phát triển mạnh, người dân nước này thích mua sắm trực tuyến.
Theo Danviet
Chuyện lạ: Doanh nghiệp gỗ Trung Quốc ồ ạt sang Việt Nam đầu tư? Những tháng đầu năm 2019 ghi nhận một hiện tượng bất thường, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành chế biến gỗ tăng đột biến, trong đó chủ yếu là các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc. Ngành chức năng lo ngại, có thể có hiện tượng doanh nghiệp đầu tư sang Việt Nam để mượn tên...