23 ngành sẽ bị ảnh hưởng bởi tác động của dịch bệnh do virus corona
23 ngành hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán, có 4 ngành dự báo có triển vọng tích cực, 10 ngành trung lập và 9 ngành sẽ bị tác động tiêu cực trong ngắn hạn.
Công ty chứng khoán SSI vừa công bố báo cáo tác động của bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona (2019-nCoV) tác động lên 23 nhóm ngành trên thị trường chứng khoán trong ngắn hạn, trong đó 4 ngành dự báo kinh doanh tích cực, 10 ngành trung lập và 9 ngành sẽ bị tác động tiêu cực.
Song với các chuyên gia phân tích tại SSI, hiện vẫn còn quá sớm để đưa ra những đánh giá cụ thể về diễn biến của thị trường chứng khoán cũng như dự báo kết quả kinh doanh và lợi nhuận của các công ty đại chúng.
9 ngành có thể chịu tác động tiêu cực
Theo báo cáo trên, 9 ngành có thể chịu tác động tiêu cực từ dịch virus corona, bao gồm may mặc, bán lẻ, thủy sản, bia, dầu khí, chứng khoán, cảng biển và vận chuyển, dịch vụ sân bay, hàng không.
Theo phân tích từ báo cáo, dịch bệnh sẽ không có tác động trực tiếp đến nhu cầu các sản phẩm may mặc, vì hầu hết các công ty may mặc của Việt Nam không xuất khẩu sang Trung Quốc. Song, do GDP của Trung Quốc tăng trưởng chậm lại nhiều khả năng sẽ gây tác động tiêu cực đến tiêu dùng trong dài hạn. Một điểm đáng lưu ý, Trung Quốc là thị trường cung cấp vải nguyên liệu lớn nhất cho Việt Nam. Do đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực khi nhiều nhà máy dệt tại Trung Quốc đóng cửa trong tháng Một và Hai.
Riêng với ngành bán lẻ sẽ bị tác động trực tiếp, nhóm phân tích chỉ ra lượt khách mua sắm tại các cửa hàng sẽ giảm do phải hạn chế đến những nơi công cộng nhằm tránh khả năng lây nhiễm virus corona. Có thể, người tiêu dùng sẽ chuyển hướng sang các sản phẩm bảo vệ sức khỏe cần thiết (như dược phẩm) thay vì các mặt hàng công nghệ như trước đây.
Thêm vào đó, các chuyên gia này nhấn mạnh: “Thói quen tiêu dùng của người dân có thể sẽ chuyển từ thương mại truyền thống sang hình thức thương mại hiện đại, mua sắm trực tuyến để đảm bảo an toàn vệ sinh.”
Việc người tiêu dùng tránh đi tới những nơi công cộng là lý do khiến các nhóm phân tích cho rằng nhu cầu tiêu dùng bia sẽ giảm và ngành này theo đó sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ virus corona.
Đặc biệt với nhóm ngành thủy sản, hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc có thể giảm sút. Trước đó, trong năm 2019, thị trường Trung Quốc chiếm 16,5% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, trong đó mặt hàng tôm 16,1% và cá tra 33%.
Ngoài ra, các nhóm ngành cảng biển và vận chuyển, dịch vụ sân bay, hàng không sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực từ sự cố dịch bệnh. Khi mà hành khách từ Trung Quốc chiếm khoảng 40% tổng số lượt khách tới Việt Nam trong năm 2019. Bên cạnh đó, các hoạt động vận chuyển hàng hóa liên quan đến Trung Quốc cũng sẽ giảm do nhu cầu từ tiêu dùng của Trung Quốc thấp hơn và hoạt động sản xuất bị hạn chế.
Với các doanh nghiệp trong ngành dầu khí, báo cáo này dự báo giá dầu có thể tiếp tục giảm do nhà đầu tư lo ngại về nhu cầu dầu mỏ sẽ yếu đi tại Trung Quốc, nơi mà nền kinh tế chịu ảnh hưởng bởi virus corona.
Và cuối cùng là nhóm chứng khoán, phân tích chỉ ra tâm lý thị trường sẽ bị ảnh hưởng xấu trong ngắn hạn, nhưng khi dịch bệnh được kiểm soát, thị trường sẽ ngay lập tức phục hồi mạnh mẽ như đã từng xảy ra trong quá khứ.
“Chúng tôi duy trì quan điểm trung lập đối với ngành chứng khoán trong năm 2020,” nhóm phân tích đánh giá.
4 nhóm ngành ít bị tác động, thậm chí là “sống khỏe”
Trái lại với những ngành bị ảnh hưởng tiêu cực trên, báo cáo của SSI cũng chỉ ra 4 nhóm ngành được tâm lý thị trường kỳ vọng sẽ tích cực.
Trong số đó, lĩnh vực được thị trường kỳ vọng nhiều nhất dễ thấy nhất là các cổ phiếu trong ngành dược. Tuy nhiên, những chuyên gia của SSI lại cho rằng đây chỉ là xu hướng tâm lý trong ngắn hạn và họ chưa thấy có dấu hiệu thay đổi đáng kể về yếu tố cơ bản đối với các công ty dược niêm yết trong bối cảnh dịch virus corona, vì vậy báo cáo nhấn mạnh tiếp tục duy trì quan điểm trung lập với lĩnh vực này trong năm 2020.
Bên cạnh đó, nhóm ngành công nghệ thông tin, điện và nước sạch được đánh giá cao về triển vọng.
Các chuyên gia của SSI dự báo “ngay cả khi tăng trưởng kinh tế bị chững lại, chi tiêu cho các dự án công nghệ thông tin vẫn là điều cần thiết để duy trì khả năng cạnh tranh cũng như giúp cắt giảm chi phí trong sản xuất, kinh doanh tại các công ty.
Video đang HOT
[ Ngân hàng Thế giới xem xét huy động các nguồn lực chống dịch nCoV]
Với ngành điện, các nhà máy nhiệt điện khí sẽ được hưởng lợi từ giá dầu thô sụt giảm công thêm việc giá khí thấp hơn (cơ chế giá mua khí NT2 là 46% MFO) trong quý 1. Cụ thể, giá MFO đang bình quân ở mức 7,82 USD/mbtu so với 8,93 USD/mbtu của tháng 1/2019, dẫn đến giá khí đầu vào của NT2 chỉ ở mức xấp xỉ 5,9 USD/mbtu và giảm 11,4% so với mức 6,66 USD/mbtu tại tháng 1/2019.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng chỉ ra rằng dịch virus corona không ảnh hưởng đến ngành nước sạch. Trên thị trường, nhu cầu nước sạch vân tăng trưởng ổn định ở mức 7%/năm với giá bán lẻ bình quân tăng 3% – 5%/năm.
10 nhóm ngành “bình chân như vại”
Nhóm phân tích cho rằng ngành ôtô có thể sẽ không chịu ảnh hưởng bởi virus corona, do đó họ giữ nguyên quan điểm tích cực về ngành và kỳ vọng mức tăng trưởng khoảng 10%-11% số lượng xe bán ra trong năm 2020.
Bất động sản thương mại, khu công nghiệp và các ngành liên quan (như xây dựng, thép, xi măng) được cho là không bị ảnh hưởng bởi virus corona. Báo cáo chỉ ra hoạt động mua nhà chung cư dựa trên nhu cầu và kế hoạch để sinh sống trong dài hạn, do đó không liên quan đến sự kiện như bệnh dịch. Thêm vào đó, nhu cầu thuê đất khu công nghiệp dự kiến sẽ tiếp tục tăng trước làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh cộng thêm sự chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc.
Với nhóm ngân hàng, mặc dù có thể chịu ảnh hưởng từ dịch virus corona song chỉ trong ngắn hạn song nhóm phân tích giữ quan điểm tích cực về triển vọng của ngành này trong năm 2020 và khuyến nghị mua tại vùng giá thấp.
Về nhóm các công ty bảo hiểm nói chung, dịch virus corona tại Việt Nam sẽ khiến chi phí bồi thường tăng lên ở mức vừa phải, do hầu hết các chi phí y tế sẽ được bảo hiểm xã hội chi trả. Ngoài ra, việc thanh toán chi phí bồi thường thực tế có thể chỉ xảy ra 1 đến 2 tháng sau sự cố, do đó kết quả kinh doanh của ngành trong quý 1 sẽ ít bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, nhóm các công ty kinh doanh trong lĩnh vực sữa cũng có thể không chịu ảnh hưởng từ virus corona, thậm chí các chuyên gia của SSI còn cho rằng các sản phẩm từ sữa được coi là nguồn cung cấp protein và thuận tiện để tiêu dùng, đặc biệt trong bối cảnh người tiêu dùng sẽ hạn chế đến những nơi công cộng và giảm các hoạt động ăn uống bên ngoài.
Và, cuối cùng là nhóm ngành phân bón nhờ vào việc giá dầu giảm sẽ tiết kiệm được chi phí khí đầu vào. Tuy nhiên, trong trường hợp Việt Nam hạn chế thương mại qua biên giới sẽ làm giảm xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc cũng như tiêu thụ phân bón./.
Theo Hạnh Nguyễn (Vietnam )
211 doanh nghiệp huy động được 280.141 tỷ đồng trái phiếu
Trong tháng cuối năm 2019 có thêm một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu giá trị lớn, lũy kế cả năm có 211 doanh nghiệp, bao gồm 82 doanh nghiệp niêm yết, huy động được tổng cộng 280.141 tỷ đông trái phiếu.
Công ty chứng khoán tích cực làm "bà mối"
Trong tháng 12/2019, đối tượng phát hành trái phiếu có sự thay đổi từ nhóm ngân hàng, bất động sản sang các loại hình doanh nghiệp khác.
Trong đó, nhiều doanh nghiệp có "tuổi đời" hoạt động còn non trẻ, hoặc những cái tên "lạ" huy động trái phiếu với quy mô hàng ngàn tỷ đồng.
Chẳng hạn, Công ty TNHH Hải Dương Giang Biên, được thành lập tháng 6/2018, liên tiếp thông báo trong những ngày cuối năm 2019 về việc phát hành 3 lô trái phiếu, tổng giá trị 3.600 tỷ đồng, tài sản thế chấp được đảm bảo bởi bên thứ ba.
Đơn vị đứng ra thu xếp cho đợt phát hành của Hải Dương Giang Biên là Công ty Chứng khoán Kỹ Thương (TCBS) và Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank).
Hay Công ty TNHH Đầu tư Kinh doanh và Phát triển Thương mại Địa ốc Xanh vào ngày cuối cùng của năm 2019 huy động được 3.450 tỷ đồng trái phiếu riêng lẻ (trong tổng số 4.100 trái phiếu đăng ký phát hành) vào ngày cuối cùng của năm 2019.
Toàn bộ số trái phiếu được mua bởi tổ chức trong nước. Thu xếp vốn cho Công ty là TCBS và Techcombank. Ngay trước khi huy động vốn trái phiếu, công ty này đã thực hiện tăng vốn điều lệ từ 675 tỷ đồng lên 1.025 tỷ đồng.
Theo thống kê, trong năm 2019, có 211 doanh nghiệp thực hiện chào bán tổng cộng 300.588 tỷ đồng trái phiếu, chia làm 807 đợt phát hành, trong đó có 12 đợt phát hành không thành công.
Tổng giá trị trái phiếu phát hành thành công là 280.141 tỷ đồng, tương đương 93,2% giá trị chào bán và tăng 25% so với năm 2018.
Hầu hết các doanh nghiệp phát hành trái phiếu dưới hình thức riêng lẻ, chỉ có khoảng 6% phát hành ra công chúng bởi các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, có một lô phát hành trái phiếu quốc tế trị giá 300 triệu USD của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPB) ngày 17/7/2019 với kỳ hạn 3 năm, lãi suất 6,25%/năm và trái phiếu được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Singapore.
Các công ty chứng khoán đang cạnh tranh tích cực hơn trong mảng tư vấn, thu xếp phát hành trái phiếu doanh nghiệp, thậm chí theo tuyên bố của một công ty 100% vốn ngoại mới đây là thì mảng này sẽ trở thành mảng trọng yếu, thay vì chỉ đẩy mạnh môi giới thông qua lãi suất cho vay giao dịch ký quỹ (margin) thấp như hiện nay.
Thống kê của Công ty Chứng khoán SSI cho biết, có tổng cộng 244.500 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp được thu xếp phát hành thông qua trung gian là công ty chứng khoán, tương đương 87,3% tổng lượng phát hành trong năm 2019.
Với quy mô tăng nhanh trong 2 năm trở lại đây, trái phiếu doanh nghiệp trở thành thị trường hấp dẫn với các công ty chứng khoán để gia tăng doanh thu và lợi nhuận, không chỉ từ phí thu xếp phát hành, mà còn từ hoạt động phân phối trên thị trường thứ cấp.
Nhóm 3 công ty chứng khoán thu xếp phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhiều nhất là TCBS, Công ty Chứng khoán VPS (VPS) và Công ty Chứng khoán VNDIRECT (VND), với thị phần lần lượt là 21,6%, 13,9% và 12,4%; riêng nhóm này chiếm gần 50% tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp thông qua trung gian là công ty chứng khoán.
Trong đó, VND tập trung vào các đợt phát hành của các ngân hàng với tổng giá trị thu xếp phát hành là 27.300 tỷ đồng (chiếm 93%).
Tại TCBS, 58,5% (khoảng 30.000 tỷ đồng) tổng giá trị thu xếp phát hành thành công của TCBS là trái phiếu bất động sản của các doanh nghiệp có liên quan đến Vingroup, Vinametric, NewCo...
Thị phần thu xếp phát hành trái phiếu của VPS có được phần nhiều đến từ VPB. Ngân hàng này phát hành hơn 18.000 tỷ đồng trái phiếu trong năm 2019, trong đó hơn 17.000 tỷ đồng thông qua VPS.
Ngoài VPB, VPS không thu xếp phát hành cho ngân hàng nào khác. VPS còn tư vấn phát hành trái phiếu cho nhiều tổ chức là khách hàng tín dụng của VPB.
Lãi suất trái phiếu cao hơn lãi tiền gửi từ 3 - 4%/năm
Tính bình quân gia quyền theo giá trị phát hành năm 2019, lãi suất trái phiếu trung bình toàn thị trường là 8,8%/năm và kỳ hạn trái phiếu bình quân là 4,04 năm.
Lãi suất và kỳ hạn đều nhích tăng trong quý cuối năm, phần nhiều do các ngân hàng thương mại gia tăng phát hành trái phiếu kỳ hạn dài và lãi suất cũng cao hơn.
Theo SSI, nhóm trái phiếu ngân hàng có lãi suất bình quân thấp nhất (7,4%/năm), nhóm có lãi suất bình quân cao nhất là bất động sản (10,3%/năm).
Nhóm các doanh nghiệp khác có lãi suất bình quân cao ngang bằng nhóm bất động sản, chủ yếu là do lô phát hành 1.402 tỷ đồng trái phiếu 5 năm với lãi suất 20%/năm của Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Hồng Hoàng. Nếu loại trừ khoản này, lãi suất trái phiếu bình quân của nhóm các doanh nghiệp khác chỉ là 9,86%/năm.
Ngoài lô trái phiếu lãi suất cao bất thường kể trên, có 3 lô phát hành của Bất động sản Phát Đạt (PDR) và 2 lô phát hành của Công ty TNHH MTV Đầu tư và Phát triển Gia Cư có lãi suất trên 13%/năm - đều là các doanh nghiệp bất động sản.
Công ty Đầu tư Kinh doanh Bất động sản Star Beach chào bán 150 tỷ đồng trái phiếu 24 tháng, lãi suất 18%/năm, nhưng không có bên nào mua, cho thấy nhà đầu tư trái phiếu cũng có sự chọn lọc, không hẳn chỉ nhìn vào lãi suất.
Ngoại trừ nhóm trái phiếu ngân hàng, hầu hết các trái phiếu nằm trong khoảng lãi suất 10 - 11%/năm, tức là cao hơn lãi suất tiền gửi từ 3 - 4%/năm và ngang bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn đang là 9 - 11%/năm (theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước).
Kỳ hạn trái phiếu bình quân dài nhất (7,3 năm) thuộc về nhóm phát triển hạ tầng và các doanh nghiệp năng lượng, khoáng sản - phù hợp với tính chất dài hạn của các dự án đầu tư mà những doanh nghiệp này thực hiện.
Nhóm phát hành trái phiếu kỳ hạn ngắn nhiều nhất là các công ty chứng khoán, chủ yếu từ 1 - 2 năm. Cá biệt, có 2 lô phát hành với tổng giá trị 104 tỷ đồng của VND có kỳ hạn lên tới 10 năm.
Nhà đầu tư cá nhân tham gia nhiều hơn, cần cơ chế bảo vệ
Mặt dù quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng liên tục qua các năm, nhưng báo cáo của SSI đánh giá, hiện kênh trái phiếu doanh nghiệp vẫn có quy mô khá nhỏ so với các kênh huy động vốn khác.
Nền kinh tế vẫn dựa nhiều vào tín dụng ngân hàng, tổng quy mô tín dụng cuối năm 2019 khoảng 8,2 triệu tỷ đồng, tương đương 138,4% GDP và gấp 12,3 lần quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Theo thống kê của Ngân hàng châu Á (ADB), quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam (gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp) tại ngày 30/9/2019 là 95,37 tỷ USD, tương đương 37,6% GDP - là mức tương đương với Philippines, nhưng còn cách khá xa Trung Quốc, Thái Lan (xấp xỉ 60% GDP).
Các nước càng phát triển thì tỷ trọng kênh trái phiếu trên GDP càng lớn như Nhật Bản là 214% GDP, Hàn Quốc là 120% GDP...
Theo đó, SSI nhận định, thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp, mở rộng là xu hướng tất yếu và phù hợp để tạo sự cân bằng và nâng cao chất lượng thị trường tài chính.
Tuy nhiên, trái phiếu doanh nghiệp vẫn là kênh đầu tư khá mới mẻ tại Việt Nam, sự phát triển nhanh giai đoạn vừa qua tiềm ẩn những rủi ro nhất định, cần được nhận diện và điều chỉnh bởi cơ quan quản lý để đảm bảo sự phát triển lành mạnh và bền vững.
Điều này cũng phần nào thể hiện trên thị trường, trong tổng số 211 doanh nghiệp chào bán trái phiếu ra công chúng thì có 129 doanh nghiệp chưa niêm yết, chất lượng thông tin và trách nhiệm công bố thông tin vì vậy còn tương đối hạn chế.
Đặc biệt, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư cá nhân.
Trong năm 2019, các nhà đầu tư cá nhân, chủ yếu là cá nhân trong nước, đã mua 26.492 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp, tương đương 9,64% tổng lượng phát hành toàn thị trường.
Giá trị đầu tư mà các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể còn lớn hơn do có một số trái phiếu được phát hành riêng lẻ trên thị trường sơ cấp sau đó được phân phối lại cho nhà đầu tư cá nhân trên thị trường thứ cấp.
Mặc dù tham gia ngày một nhiều, nhưng nhà đầu tư cá nhân thường bị hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin cũng như kinh nghiệm đầu tư.
Đây là rủi ro cho không chỉ người tham gia đầu tư, mà cho cả sự ổn định của thị trường.
Tuy nhiên, các tổ chức trong nước vẫn là nhà đầu tư chính trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, với tổng lượng mua 219.200 tỷ đồng, tương đương gần 80% lượng phát hành trong năm 2019.
Trong đó, các ngân hàng thương mại mua 25.500 tỷ đồng, tập trung vào các trái phiếu bất động sản; các công ty chứng khoán mua 38.600 tỷ đồng, tập trung vào trái phiếu do ngân hàng phát hành.
Giá trị đầu tư trái phiếu doanh nghiệp thực tế của các ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán có thể lớn hơn, do thông tin bên mua của những đợt phát hành riêng lẻ càng về cuối năm càng trở nên chung chung, chỉ còn ghi "tổ chức trong nước".
Đối tượng "tổ chức trong nước" này đã mua 56% lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành, giá trị trên 150.000 tỷ đồng.
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Đồng USD lên giá ngày cận tết, lãi suất qua đêm giảm sâu kỷ lục Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm bất ngờ giảm xuống dưới mức 1%/năm trong 4 phiên giao dịch gần đây. Nguồn cung dồi dào khi tỷ lệ huy động vốn/tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước giảm từ 90% xuống 85% từ đầu năm là nguyên nhân đáng kể. Lãi suất qua đêm giảm sâu trong nửa...