2019 – Tận dụng độ mở nền kinh tế?
Năm 2018 nền kinh tế đạt tăng trưởng 7,08%, mức tăng cao nhất kể từ năm 2008. Tuy nhiên, dư âm khủng hoảng kinh tế toàn cầu những năm 2008-2009, đã buộc các chuyên gia thay vì phấn khởi trở nên ngần ngại với con số tăng trưởng ấn tượng. Do vậy niềm tin tiếp đà tăng trưởng cho năm 2019 như một “phép thử”, bởi vấn đề cải thiện môi trường kinh doanh được nhận định đã chạm đến phần khó nhất…
Cẩn trọng với chu kỳ
Những biến động của nền kinh tế thường được gọi là chu kỳ kinh tế, ứng với những thay đổi trong điều kiện kinh doanh. Kinh nghiệm cho thấy những con số tăng trưởng cao nhất thập niên, tăng trưởng vượt bậc… thường được xem như biểu hiện đạt đỉnh của một chu kỳ kinh tế, là tín hiệu sớm báo trước một thời kỳ suy thoái.
Cụm từ “chu kỳ” mô tả về biến động kinh tế như một mô thức lặp đi lặp lại, có thể dự báo trước. Cũng giống như chu kỳ 4 mùa của tự nhiên xuân hạ thu đông, chu kỳ kinh tế của Việt Nam cứ tròn 10 năm lại có 1 đợt suy thoái diễn ra.
Thật ra, đà tăng trưởng kinh tế của một quốc gia sẽ được tiếp tục nếu nền kinh tế vẫn còn nhiều động lực hỗ trợ tăng trưởng, và khả năng quốc gia đó vận dụng các động lực đó, có những chu kỳ kinh tế kéo dài chỉ 1-2 năm (thí dụ kinh tế Mỹ giai đoạn 1980-1982), có chu kỳ tăng trưởng kéo dài gần 25 năm (kinh tế Mỹ giai đoạn 1983-2008)…
Đà tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục mạnh mẽ cho Việt Nam nếu chúng ta tận dụng tốt các động lực tăng trưởng và tránh được những rủi ro chung của bối cảnh toàn cầu. Câu chuyện về kinh tế thần kỳ của Nhật Bản những năm 1951-1973, sự tăng trưởng GDP của Trung Quốc gần đây, là những thí dụ cho sự tăng trưởng không mệt mỏi, không ngần ngại và hoàn toàn không tuân theo chu kỳ trước đó.
Ngay trong tuần đầu tiên năm 2019, một vài tin tức khác cũng làm lan tỏa thêm tâm lý lo ngại sẵn có. Thí dụ, động thái Ngân hàng Nhà nước hút ròng qua kênh thị trường mở (OMO) tổng cộng 21.042 tỷ đồng; lãi suất VNĐ kỳ hạn qua đêm, 1 tuần, 1 tháng đều tăng so với tuần trước đó, lần lượt 4,64% (tăng 0,4%), 4,82% (tăng 0,4%) và 5,57% (tăng 0,6%). Giá vàng tăng cả trong và ngoài nước đã leo lên đỉnh cao mới của 6 tháng, bất chấp cả việc đồng USD tăng giá.
Bên cạnh đó, với sự phát triển của công nghệ thông tin và báo chí truyền thông, tin tức cập nhật khá nhanh, đầy đủ về tình hình thế giới đã đẩy nhanh sự lan tỏa tâm lý tiêu cực, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày càng lớn.
Nhiều chuyên gia dự báo sự chững lại của đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đổ lỗi cho tranh chấp thương mại Mỹ – Trung, các động thái thắt chặt chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương đang rục rịch ở nhiều quốc gia, trong nhóm đó dẫn đầu là Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), với dự báo sẽ tiếp tục tăng lãi suất vào quý III-2019.
Ở chiều ngược lại, Trung Quốc đầu năm 2019 triển khai chính sách nới lỏng tiền tệ, bơm 1.500 tỷ nhân dân tệ vào nền kinh tế, thông qua việc hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% xuống còn 13,5% đối với các ngân hàng lớn và 11,5% đối với các ngân hàng nhỏ.
Những động lực
Trước những sóng gió của thế giới, kinh tế Việt Nam đang có nhiều điểm sáng, là những động lực giúp Việt Nam phân hóa, tách ra khỏi dòng xoáy suy thoái để tiếp đà tăng trưởng của năm 2017-2018. Theo đó, Việt Nam là quốc gia hưởng lợi từ chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Đó là việc làn sóng dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang Việt Nam. Theo nhiều chuyên gia, cuộc chiến này sẽ không kéo dài, nguyên nhân từ sự tổn hại nó mang lại trực diện cho cả Mỹ và Trung Quốc.
Năm 2019, như nhận định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, kinh tế Việt Nam có thể tiếp tục bứt phá là điều khả thi. Các thành phần kinh tế, cũng như những chính sách cần tận dụng những cơ hội đang mở ra từ các cú sốc kinh tế toàn cầu, để phân hóa, để tách khỏi xu hướng chững lại của kinh tế toàn cầu, tiếp tục thời kỳ tăng tốc phát triển.
Tuy nhiên, bài học mang cho những doanh nghiệp toàn cầu là cần dàn trải đầu tư, tránh khu trú quá nhiều vào Trung Quốc (công xưởng của thế giới). Và Việt Nam có thể là phương án thay thế cho các doanh nghiệp khi lựa chọn địa điểm sản xuất, do có nhiều điểm tương đồng trong văn hóa và môi trường kinh doanh. Chiến tranh thương mại càng kéo dài càng có động lực mạnh hơn nữa cho làn sóng dịch chuyển đầu tư, gia tăng dòng vốn vào cho Việt Nam.
Bên cạnh sự chuyển dịch của dòng vốn vào Việt Nam do hưởng lợi từ chiến tranh thương mại, Việt Nam còn là thị trường được các tổ chức đánh giá, xếp hạng thị trường, như FTSE Russell đưa vào danh sách theo dõi nâng hạng từ cận biên lên mới nổi loại 2 trong năm 2018, hay MSCI có khả năng cũng nâng hạng cho Việt Nam trong năm 2019. Đây là điểm thay đổi lớn cho triển vọng tăng trưởng kinh tế nhờ vào nỗ lực cải thiện môi trường pháp lý, hạ tầng và chất lượng thị trường, hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ của chính phủ.
Khi trở thành thị trường mới nổi hạng 2, Việt Nam sẽ đón nhận nguồn vốn đầu tư ngoại rất lớn. Theo đó, khả năng các quỹ ETF sẽ phân bổ tăng tỷ trọng ở thị trường Việt Nam, với giá trị khoảng 1,6 tỷ USD. Bên cạnh đó, dòng vốn vào đầu tư gián tiếp qua thị trường tài chính thường vào từ trước khi thị trường được chính thức nâng hạng, cũng là tâm điểm chú ý của dòng vốn vào trực tiếp FDI. Thị trường chứng khoán tăng trưởng, không những là cơ hội cho doanh nghiệp niêm yết huy động vốn, còn là cơ cấu thúc đẩy tổng cầu hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế.
FTA thế hệ mới và cơ hội cho xuất khẩu
Video đang HOT
Theo thông tin từ trung tâm WTO, Việt Nam đã tham gia và hoàn tất đàm phám 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, trong số đó 9 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi. Đây được xem là cơ hội lớn cho tăng trưởng kinh tế trong năm 2019 của Việt Nam.
Đầu tiên là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày 14-1-2019, sau 60 ngày kể từ ngày ra thông báo chính thức 15-11-2018. Theo đó, CPTPP là một lực đẩy, nếu tận dụng thành công, kinh tế Việt Nam có thể kỳ vọng bước phát triển mới.
Với CPTPP, thuế xuất nhập khẩu áp dụng cho doanh nghiệp Việt xuất sang thị trường các nước tham gia CPTPP giảm từ 1,7% xuống còn 0,2%. Hàng rào phi thuế quan được áp dụng sẽ giảm bình quân khoảng 3,6%. Từ đó, dự báo về tình hình xuất nhập khẩu, CPTPP có khả năng thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thêm 4,2%, nhập khẩu tăng 5,3%; kết hợp với tăng năng suất, xuất khẩu có thể đạt mức tăng 6,9% và nhập khẩu tăng 7,6%.
Về FTA Việt Nam – EU, đến nay đã được tách thành 2 hiệp định nhỏ là Hiệp định thương mại (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA). Cả 2 hiệp định kỳ vọng được đưa ra ký kết trong quý I này. Khi có hiệu lực, EVFTA và EVIPA cũng là một cánh cửa được mở ra cho hàng hóa Việt Nam xuất vào các thị trường 28 nước châu Âu với mức thuế điều chỉnh về 0%. Thuế suất giảm trực tiếp làm giá thành hàng hóa Việt trở nên cạnh tranh hơn về giá, là một cơ hội cho tăng trưởng kinh tế.
Khi các FTA thế hệ mới hiệu lực, đồng nghĩa với việc sẽ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản thương mại để hàng hóa của Việt Nam tham gia sâu hơn chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Trước bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, những mắt xích của chuỗi cung ứng toàn cầu trước đây khó lung lay, nay sẽ là cơ hội mở ra cho hàng hóa Việt Nam.
Ngược với bối cảnh hàng hóa Trung Quốc được áp dụng mức thuế đặc biệt cao, hàng hóa Việt Nam gần như được xóa bỏ lá chắn thuế song phương và đa phương.
Mặc dù cạnh tranh có phần khốc liệt hơn trên thị trường nội địa, nhưng các FTA mới lại mở toang cánh cửa cho hàng Việt đến hàng chục quốc gia. Đó rõ ràng là cơ hội dành cho những hàng hóa có lợi thế so sánh, lợi thế tương đối của Việt Nam được tham gia trao đổi thương mại, mang lại lợi ích cho tất cả các bên.
Bối cảnh chung của kinh tế thế giới 2019 được dự báo tăng trưởng chững lại. Tuy nhiên, đối với Việt Nam vẫn có nhiều động lực riêng. Cú sốc từ chiến tranh thương mại, sự rung lắc trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nhiều mắt xích sẽ mở ra cơ hội cho hàng hóa Việt Nam đáp ứng thị trường bỏ ngỏ, đặc biệt trong bối cảnh hàng loạt FTA được đưa vào hiệu lực và ký kết, mang lại lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu.
ThS. Đinh Hạ Vân
Theo saigondautu.com.vn
Kinh tế Việt Nam 2019 - Phải thích ứng những biến động
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC) vừa đưa ra dự báo về kinh tế Việt Nam năm 2019. Đó là tăng trưởng kinh tế có thể đạt 7%, lạm phát tăng 3,6% (chỉ tiêu Quốc hội giao tương ứng 6,6-6,8% và 4%). Đây là dự báo khá lạc quan trong khi kinh tế thế giới 2019 rất khó đoán định. Trao đổi với ĐTTC, ông TRƯƠNG VĂN PHƯỚC, Quyền Chủ tịch NFSC, cho rằng có nhiều yếu tố thuận lợi để đạt được mục tiêu này trong năm 2019.
Những yếu tố thuận lợi
PHÓNG VIÊN: - Cơ sở nào để NFSC đưa ra các dự báo lạc quan như trên trong năm 2019, thưa ông?
Ông TRƯƠNG VĂN PHƯỚC: - Trong vài năm trở lại đây, các chỉ tiêu Quốc hội giao, Chính phủ điều hành luôn đạt và vượt. Năm 2018, GDP có thể tăng 6,9%. Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn như chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất khiến nhiều nước thắt chặt tiền tệ, Việt Nam đã tận dụng tốt các cơ hội để phát triển.
Chúng ta đã tiến hành các cải cách kinh tế, môi trường đầu tư thông thoáng hơn, giấy phép con được kiên quyết cắt bỏ... Đó là những thành quả không thể phủ nhận.
FED tăng lãi suất và những chỉ báo cho tăng trưởng kinh tế Mỹ gắn liền chính sách tiền tệ, sẽ tạo nhiều thuận lợi cho phần còn lại của thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Và chúng ta có nhiều dư địa hơn để hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng lạm phát thấp và tăng trưởng cao hơn.
Về kinh tế thế giới năm 2019, bên cạnh những lo ngại về cuộc chiến tranh thương mại vẫn có nhiều điểm thuận lợi. Đó là giá dầu thế giới sẽ không còn tăng nhiều, lạm phát toàn cầu sẽ chịu tác động rất ít từ yếu tố giá dầu.
Ngoài ra, tăng trưởng tại nhiều quốc gia đang suy giảm. Xu hướng tăng lãi suất tại nền kinh tế Mỹ cũng được dự báo có thể sẽ chậm lại thông qua các tín hiệu từ nhận định của Chủ tịch FED sau cuộc họp vừa kết thúc ngày 20-12. Cụ thể, mức lãi suất trung hòa nền kinh tế này xác định đã giảm từ 3% xuống còn 2,75%, nhờ đó đã giảm dư địa cho chính sách tăng lãi suất.
Ở trong nước, các chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh sẽ tiếp tục được thúc đẩy... Những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên, là những điều kiện để chúng tôi đưa ra các dự báo lạc quan.
Những thách thức, cùng cơ hội
- Theo ông, đâu là thách thức lớn nhất đối với tăng trưởng trong năm 2019?
- Do chúng ta đã hội nhập sâu, nên thách thức lớn của Việt Nam nằm trong thách thức lớn của kinh tế thế giới. Tác động của chiến tranh thương mại bao giờ cũng có 2 chiều. Ngày 23-1-2019, Mỹ và Trung Quốc sẽ nối lại đàm phán, nhưng trước mắt gói hàng hóa trị giá 200 tỷ USD nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ đã ngừng áp dụng thuế suất.
Tôi cho rằng xung quanh cuộc chiến thương mại này có nhiều diễn biến cần phải theo dõi, bởi đây là điều lo ngại nhất với kinh tế thế giới. Theo dự báo, cuộc chiến thương mại này có thể khiến tăng trưởng thương mại toàn cầu từ 5,2% năm 2017 giảm xuống 4,2% năm 2018 và dự báo còn khoảng 4% năm 2019.
Theo dự báo của chúng tôi, đồng USD sẽ không tăng giá, thậm chí giảm và điều đó sẽ khiến giá cả hàng hóa thế giới giảm, giá xăng dầu giảm. Với một nền kinh tế hội nhập sâu như Việt Nam, đó là những yếu tố thuận lợi để chúng ta kiềm chế lạm phát tăng ở mức 3,6% năm 2019.
Việt Nam là nền kinh tế mở cửa và dựa nhiều vào xuất khẩu. Nếu quy mô thương mại toàn cầu giảm xuất khẩu chúng ta sẽ khó khăn. Nhưng thách thức lớn hơn nữa là tính thích ứng của chính sách vĩ mô thế nào để loại trừ khó khăn, khơi dậy tiềm năng của nền kinh tế.
Chúng ta chưa nói trước được gì. Điều có thể nói trước, theo suy nghĩ của tôi là sẽ có sự linh hoạt trong chính sách kinh tế vĩ mô để thích ứng trong điều kiện toàn cầu hiện nay.
- Việc FED tăng lãi suất lần thứ 4, theo ông có tác động thế nào đến kinh tế thế giới và Việt Nam?
- Chính sách tiền tệ của Mỹ dựa vào 2 nhân tố chính là lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Những năm trước Mỹ đưa lãi suất về 0% khiến chi phí vốn của nền kinh tế Mỹ thấp, kích hoạt các dòng vốn đầu tư và làm tăng trưởng của nước này chỉ đạt 1,2-1,3%.
Nhưng nay, với chính sách điều hành của Mỹ, tăng trưởng kinh tế đã lên 2,9-3%. Điều đó nói lên chính sách lãi suất có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Mỹ. Song Mỹ cũng tính toán rằng, nếu lạm phát vượt mức 2% hoặc nếu thất nghiệp giảm xuống dưới 4%, có thể nền kinh tế nóng lên và FED từng tuyên bố sẽ dùng công cụ chính sách ngăn ngừa từ xa.
Chính sách của Mỹ đang rất thận trọng. Chủ tịch FED nói là chính sách tiền tệ của Mỹ hiện như người đứng trong phòng tối, phải dò dẫm từng bước, nếu tăng lãi suất nhiều có thể tác động tiêu cực tới kinh tế. Do đó, ngày 20-12, FED tuyên bố nếu có tăng lãi suất năm 2019 chỉ thực hiện 1 lần, vì Mỹ đã xác định lãi suất trung hòa 2,75% nhưng hiện đã lên 2,5%, tức chỉ còn dư địa 0,25%.
Thế giới đang khá ngạc nhiên với thay đổi chính sách của Mỹ. Các tín hiệu đó cho thấy chính sách lãi suất như vậy sẽ tốt cho kinh tế thế giới.
Lạc quan về TTCK
- Ông nhìn nhận thế nào về thị trường tài chính trong năm 2018?
- Thị trường tài chính hoàn hảo có 2 cấu phần: thị trường tiền tệ cung cấp vốn ngắn hạn; thị trường vốn cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam có điểm khác biệt là vừa qua phần lớn dòng vốn tập trung vào vốn ngắn hạn của thị trường tiền tệ.
Vài năm gần đây, thị trường vốn đã chuyển động tốt hơn, thể hiện qua giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán (TTCK) trên GDP tăng đến 70%. Nhưng một thị trường tài chính hoàn hảo là ở đó các công cụ, thiết chế phải được tiếp cận với thông lệ quốc tế, tức các công cụ trên thị trường đầy đủ hơn, thị trường hoạt động hoàn hảo hơn.
Về vốn tín dụng, điều cần thiết là phải làm cho vốn ngắn hạn tín dụng đi vào nền kinh tế, sản xuất kinh doanh, thay vì đi vào những lĩnh vực có quá nhiều rủi ro như bất động sản hay đầu cơ chứng khoán.
- Dự báo của ông về TTCK năm 2019?
- Năm 2018, TTCK thế giới biến động nhiều do ảnh hưởng của việc FED tăng lãi suất và chiến tranh thương mại. TTCK Mỹ đã tác động lên nhiều thị trường, trong đó có Việt Nam. Nhiều quốc gia, nền kinh tế mới nổi đã có hiện tượng rút vốn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn tạo được niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài do lạm phát thấp, tỷ giá ổn định. Dòng vốn ngoại vẫn giữ được trong nền kinh tế.
Với Việt Nam, những kết quả đạt được trong năm 2018 và sau một thời gian tiếp cận, quan sát các thay đổi của kinh tế thế giới, chúng ta có nhiều kịch bản ứng phó với thách thức, tiêu cực, đồng thời khơi dậy tiềm năng, tận dụng cơ hội...
Tôi tin tưởng TTCK Việt Nam vẫn tích cực. Thông thường, quy luật là hễ lãi suất tăng tức đồng USD tăng, giá chứng khoán giảm. Nhưng khi đã đạt đến ngưỡng nào đó và ổn định, đó chính là biến số để nhà đầu tư trong và ngoài nước có phương án sản xuất, kinh doanh của mình.
Do đó tôi khá lạc quan với TTCK Việt Nam. Đương nhiên mọi thứ đều có thể thay đổi trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều bất trắc. Nhưng với kinh nghiệm điều hành, các chính sách kinh tế vĩ mô hiện nay, tôi tin rằng TTCK Việt Nam có nhiều điều để lạc quan.
- Ông dự báo thế nào về tăng trưởng tín dụng trong năm 2019 và nên ở mức nào là phù hợp?
- Chính phủ sẽ có cuộc họp vào cuối tháng 12 như mọi năm, và cuộc họp này sẽ gửi đi thông điệp chính sách với nền kinh tế năm 2019. Tôi cho rằng, các chính sách kinh tế vĩ mô đến thời điểm này đều rất đúng hướng trong bối cảnh biến động của kinh tế và tài chính thế giới.
Song, tăng trưởng tín dụng vẫn là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Mặc dù chúng ta đang cải tổ thị trường tài chính, đang uốn nắn lại các dòng vốn trong thị trường này, nhưng phải thừa nhận tín dụng ngân hàng vẫn là kênh chủ đạo giúp cho tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề là dòng vốn đó đi thế nào, có đúng hướng không, phân bổ thế nào để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Tôi cho rằng mỗi năm tăng trưởng tín dụng 14-15% là chấp nhận được.
- Xin cảm ơn ông.
Dự báo năm 2019, kinh tế thế giới sẽ suy giảm do tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, trong đó có Nhật Bản, châu Âu. Riêng kinh tế Mỹ có 2 luồng ý kiến: tăng trưởng giảm ở mức 2,9% năm 2018, còn 2,5% vào năm 2019; các chính sách của Tổng thống Donald Trump sẽ giúp kinh tế Mỹ tăng trưởng. Chủ tịch FED cũng nói FED sẽ chứng minh cho thế giới là chính sách của FED đúng đắn, làm cho tăng trưởng kinh tế Mỹ ổn định. Đó là những ý kiến chúng ta phải tiếp tục xem xét.
Quang Minh (thực hiện)
Theo saigondautu.com.vn
"Lạc quan về tăng trưởng kinh tế số học mà bỏ quên chất lượng là thiếu sót" "Khả năng tăng trưởng GDP đạt được ít nhất 6,7%, khả năng đạt được 7% là có tuy nhiên vấn đề luôn luôn đặt ra là tăng trưởng nhanh như thế chưa chắc tốt", ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính cho biết. Ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính Tính chung tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm đạt 6,98%,...