11 dân công hỏa tuyến mãi nằm lại trong hang núi
Đã 60 năm qua kể từ ngày định mệnh máy bay Pháp gầm rú trên bầu trời huyện Quan Hóa rồi thả bom xuống hang Co Phường (bản Sại- xã Phú Lệ) khiến tảng đá trên vách núi đổ xuống bịt kín cửa hang, chôn vùi 11 dân công hỏa tuyến cho tới bây giờ.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, hang Co Phường với rêu phong, cỏ dại mọc xung quanh, cảnh vật hoang sơ dường như vẫn không thay đổi, cửa hang vẫn chỉ là một hốc đá bởi những phiến đá bịt kín lối vào hang. Lá cờ Tổ quốc được treo trang trọng trên nóc của hang như một sự tri ân đối với những liệt sĩ đã khuất.
Chúng tôi trở về thăm hang Co Phường, nơi đã chôn vùi 11 liệt sĩ dân công hỏa tuyến ngày ấy vào một ngày giữa tháng 7. Cái ngày lịch sử định mệnh đớn đau ấy vẫn còn ám ảnh nguyên vẹn trong tâm trí của những cụ già bản Sại dù cho thời gian có đi qua.
Hang Co Phường, nơi chôn vùi 11 liệt sĩ TNXP hỏa tuyến
Ngày ấy, địa phận xã Phú Lệ là nơi trung chuyển lương thực, vũ khí cho chiến dịch Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Lực lượng TNXP được huy động về đây xẻ núi làm đường, tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí phục vụ chiến trường. Đây là địa bàn vô cùng quan trọng bởi tuyến đường 15A chạy qua xã Phú Lệ là huyết mạch giao thông đặc biệt đối với việc vận chuyển quân, vũ khí, lương thực phục vụ cho Điện Biên Phủ và Thượng Lào.
Phủ Lệ luôn là địa bàn bị thực dân Pháp đ.ánh phá ác liệt nhất. Quân Pháp trú ở đồn Co Lương (Hòa Bình, cách địa điểm này 8km). Chúng thường xuyên mở các cuộc càn quét sang Thanh Hóa nhằm cắt đứt tuyến đường vận chuyển quân lương cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tại Phủ Lệ có hang Co Phường (còn gọi là hang Co Phương theo tiếng Thái hay hang cây khế theo tiếng Kinh) là một hang núi do thiên nhiên kiến tạo trong lòng núi đá của dãy Pố Há. Núi có chiều dài 60m, rộng 40m gồm các phiến đá lớn chồng xếp lên nhau, xung quanh núi là đồi đất. Hang có diện tích khoảng 18-20m2, nơi cao nhất của hang là 4m, càng đi sâu vào bên trong hang càng hẹp.
Phía trong cửa hang, những tảng đá lớn đã bịt kín lối vào
Video đang HOT
Vào những năm chống thực dân Pháp, hang Co Phường không chỉ là trạm quân lương mà còn là nơi trú quân của bộ đội, TNXP và dân công hỏa tuyến. Lương thực, thực phẩm và vũ khí ngoài việc chuyển bộ bằng xe đạp thồ còn được vận chuyển bằng đường ngược sông Mã. Tới khu vực Phú Lệ, dòng sông cạn, thuyền bè đi lại khó khăn được chuyển lên bờ và chuyển bộ. Đường 15A đoạn qua Phú Lệ, nơi có cầu Phú Lệ, cầu Vạn Mai thường bị máy bay giặc Pháp n.ém b.om, b.ắn phá. Để đảm bảo giao thông, đoạn đường này luôn có lực lượng TNXP, dân công hỏa tuyến đảm nhiệm để giữ vững giao thông thông suốt.
Sau khi nhận nhiệm vụ trên, ngày 6/3/1953, huyện Thiệu Hóa đã tổ chức 3 trung đội dân công, mỗi trung đội biên chế 45 người lên Quan Hóa làm đường và cầu Phú Lệ. Từ ngày 17-30/3, đoàn dân công huyện Thiệu Hóa tổ chức đan sọt, gánh đá làm đường Vạn Mai. Ngày 31/3, đơn vị dân công huyện Thiệu Hóa được Ban chỉ huy công trường điều về làm cầu Phú Lệ.
Vào 3 giờ chiều ngày 2/4/1953, máy bay giặc Pháp thay nhau thả bom khốc liệt. 3 chiếc máy bay đã thả 3 quả bom xuống khu vực xã Phú Lệ, nhưng đau đớn nhất trong vụ xả bom kinh hoàng vào chiều hôm đó là một trong 3 quả bom găm thẳng vào sườn núi Pù Bó rồi nổ tung. Cả một sườn núi đá rầm rầm tụt xuống chân núi, cửa ra vào duy nhất của hang Co Phường bị những phiến đá liền khối như gian nhà bít kín.
Đồng đội và nhân dân đã dùng mọi cách nhưng ngày đó công cụ thô sơ, chỉ là búa, cuốc, xẻng, xà beng nên việc phá một tảng đá lấp cửa hang Co Phường là một điều không tưởng và sau đó đành bất lực, không có cách nào cứu những người mắc kẹt trong hang. 11 người của tiểu đội dân công xã Thiệu Nguyên, huyện Thiệu Hóa đang trú ẩn trong hang bị mắc kẹt trong đó cho đến c.hết. Cái ngày định mệnh ấy đã chôn vùi 11 dân công hỏa tuyến tại hang Co Phường hơn nửa thế kỷ qua. Các anh chị đã ngã xuống lúc chỉ mới 18, đôi mươi và có những người chưa lập gia đình. Họ đã mãi mãi nằm lại trong lòng đất, cuộc đời của những liệt sĩ TNXP ở đây cũng giống như câu chuyện của 10 cô gái Đồng Lộc hay ở “hang Tám Cô” vậy. Họ là những người đã góp xương m.áu làm nên chiến thắng lịch sử 30/4/1975.
Nỗi ám ảnh vẫn còn hằn trong đôi mắt của cụ Hà Văn Nhậm, người con của bản Sại. Năm nay cụ Nhậm cũng đã ngoài 90 t.uổi rồi thế nhưng nhắc về cái ngày định mệnh ấy, đôi mắt cụ nhìn xa xăm, giọng cụ khắc khoải: “Sau tiếng nổ rung trời, tôi thấy xung quanh trở nên hoang tàn, cảnh tượng hãi hùng, chỉ thấy x.ác n.gười và m.áu tràn lan khắp một vùng. Nơi hang Co Phường tiếng kêu la thảm thiết, nhiều người dân tập trung tìm cách cứu các anh chị nhưng vô vọng vì khối đá quá lớn. Người dân chỉ còn cách đưa thức ăn qua máng luồng rồi đưa vào hang nhưng có lẽ không thành. Khoảng 10 ngày sau thì không còn thấy tiếng kêu la nữa. Dân làng hiểu rằng, các anh chị đã ra đi rồi”.
Vỏ một trong 3 quả bom bỏ xuống hang Co Phường ngày định mệnh 2/4/1953
Trở lại thăm người chị xấu số của mình là Nguyễn Thị Mứt, ông Nguyễn Văn Thoa, quê ở thôn Nguyên Thịnh xã Thiệu Nguyên (Thiệu Hóa) không giấu được xúc động. Những giọt nước mắt lăn trên khuôn mặt gầy gò nhăn nheo, ông kể: “Ngày đó tôi chỉ mới 5 t.uổi, còn quá nhỏ để hiểu nỗi đau mất người thân. Tôi chỉ nhớ bố mẹ tôi khóc rất nhiều. Chị gái tôi lúc mất mới chỉ 21 t.uổi. Khi chị đòi đi dân công bố mẹ gàn không cho đi vì chị sức khỏe yếu nhưng chị vẫn cố đòi đi bằng được. Thế rồi mới chỉ hơn 1 tháng, chị đã mãi mãi không trở về…”
Ông Nguyễn Văn thoa, bùi ngùi khi nhớ về người chị gái xấu số của mình
Đến nay số lượng chính xác về số người c.hết kẹt trong hang Co Phường vẫn chưa được tìm hiểu chính xác. Tuy nhiên theo những cụ cao niên trong bản thì có khoảng hơn 50 người t.hiệt m.ạng ở cả trong và ngoài hang, bao gồm TNXP, dân công và người dân xã Phú Lệ. Trong số người c.hết nói trên, hiện tại đã có 16 TNXP đã được Nhà nước công nhận là liệt sỹ.
Ngày nay, phương án di dời tảng đá lớn để tìm h.ài c.ốt liệt sĩ ở hang Co Phường đã được đề cập tuy nhiên do việc tìm được h.ài c.ốt và xác định danh tính sẽ gặp nhiều khó khăn vì thế thân nhân các liệt sĩ đã thống nhất giữ nguyên vị trí những người đã yên nghỉ trong lòng hang.
Theo Dantri
Độc đáo lò rèn “cổ” giữa trung tâm Sài Gòn
Hơn 30 năm qua, lò rèn của người đàn ông từng một thời "ngang dọc" vẫn đỏ lửa. Tiếng búa mỗi sáng vẫn vang lên trong con hẻm ở bên hông chợ Nhật Tảo như một "đặc sản" đã đi vào đời sống của người dân thành thị.
Vợ chồng ông Châu bắt đầu ngày là việc mới bằng những âm thanh "chát cụp" quen thuộc
Cứ mỗi sáng, trong con hẻm bên hông chợ Nhật Tảo (phường 4, quận 10 TP.HCM), tiếng búa lại đều đặn phát ra những âm thanh nhịp nhàng từ cái lò rèn của ông Lê Văn Châu (60 t.uổi). Nếu trước đây, có hàng chục lò rèn luôn rực lửa, người người tay quai búa thì nay, có lẽ chỉ còn lại mình ông gắn bó với cái nghề truyền thống này. Hơn 30 năm qua, ông Châu đã chứng kiến bao sự thay đổi về nghề thủ công, rèn sắt.
Gạt những giọt mồ hôi nhễ nhãi trên mặt, ông Châu kể, cái duyên làm thợ rèn đến với ông xuất phát từ một cuộc tình. Mấy chục năm trước, ông gặp và phải lòng một người con gái rồi kết làm vợ chồng. Lúc bấy giờ ông đang làm nghề thợ hồ nên việc mưu sinh cũng lắm gian khó. Thấy cuộc sống của con mình bấp bênh, bố vợ ông Châu (vốn là một thợ rèn có tiếng) đã gọi về truyền nghề cho ông Châu và những người con rể khác.
Hơn một năm theo cha vợ học nghề, ông Châu đã "tốt nghiệp" về tự mở lò rèn riêng kiếm sống. Tuy nhiên, hai vợ chồng ông sống với nhau được vài năm, có với nhau được đưa con gái thì "gãy gánh" chia đôi đường. Ông Châu trở về cuộc sống đơn thân, hàng ngày trút bầu tâm sự vào những nhát búa, vào lò lửa rực hồng. Rồi ông Châu bước thêm bước nữa, người vợ sau của ông là bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, kém ông 9 t.uổi. Hàng ngày bà quanh quẩn bên ông khi thì phụ đ.ập búa, lúc thì cùng ông dọn dẹp. Vậy mà chẳng mấy chốc bà cũng tự mình đứng lò những lúc ông không thể.
Hơn 30 năm qua, ông Châu gắn bó với cái lò rèn này
Trong xóm còn nhớ đến thời hoàng kim của ông, lúc bấy giờ tiếng búa "chát cụp; chát cụp" của lò rèn đã trở thành một bản nhạc quen thuộc cứ dòn dã vang lên. Sản phẩm do ông làm ra là những dụng cụ để phục vụ cho nghề gò hàn xe hơi (làm đồng). Những chiếc kéo cắt tôn, búa gò, đe cầm tay, đầm dúm (dùng để lận máng nước mui xe)... Giai đoạn này được xem là thời kỳ "hoàng kim" của nghề rèn, hàng ông làm ra vừa theo đơn đặt hàng, vừa sản xuất hàng loạt để cung ứng cho thị trường các tỉnh.
Khi mới tiếp xúc với những âm thanh "inh tai" phát ra từ lò rèn của ông Châu hẳn ai cũng tự đặt câu hỏi: "Ồn ào như vậy làm sao hàng xóm chịu được, sao họ để cho yên thân mà làm ăn"... Ấy thế mà bao năm qua họ chưa hề than vãn lời nào về cái lò rèn "độc nhất vô nhị" vốn đã hiện hữu hàng chục năm trong xóm này. Mỗi khi nói về lò rèn này, bà con thường biểu lộ một tình cảm đặc biệt với ông chủ lò.
"Lò rèn của ông ấy có mấy chục năm nay, tụi tôi ở đây từ đó đến giờ, nghe tiếng đe, búa quen tai rồi. Ngày nào thấy bên đó im re là mọi người thấy thiếu thiếu gì đó, lại sang hỏi thăm. Vợ chồng ông ấy sống hòa đồng và tốt bụng lắm. Ngày xưa, dù hàng làm nhiều nhưng đến giờ ăn trưa, nghỉ tối là ổng tắt lò, ngưng búa, không phiền lòng mọi người" - Những người hàng xóm đã sống chung với tiếng "chát cụp" của vợ chồng ông Châu khẳng định.
Bà Sáu (ngụ gần lò rèn) tâm sự: "Cái lò rèn trong khu dân cư này đã tạo nên một sắc thái độc đáo. Trong toàn thành phố tìm cho được một lò rèn còn đỏ lửa quả là một việc vô cùng khó. Nhất là khi ngoài thị trường bày bán nhan nhản các dụng cụ cầm tay được sản xuất hàng loạt theo dây chuyền công nghệ hiện đại mà lò rèn này vẫn ngày ngày vang tiếng búa là điều rất hiếm thấy. "Tuổi thơ của tôi cũng từng gắn liền với hình ảnh chiếc lò rèn ở đầu làng, bây giờ mỗi khi nhìn thấy cái lò rèn của ông Châu bao nhiêu ký ức lại ùa về" - bà Sáu tâm sự.
Trong thế giới hiện đại này, những thợ rèn thủ công như ông Châu sắp hết "đất sống"
Số lò rèn tại TP.HCM hiện chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Hiện những người còn duy trì được nghề đến hôm nay phải là những người có tay nghề cao, có uy tín nhưng quan trọng nhất là sản phẩm làm ra đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Trong lúc thị trường đầy ắp những sản phẩm sản xuất hàng loạt bằng công nghệ dây chuyền tự động thì những người làm nghề thủ công như ông Châu đang đứng trước nguy cơ bị "xóa sổ" vì đầu ra sản phẩm bị thu hẹp khiến không còn ai mặn mà theo nghề.
"Nghề nào có nghiệp nấy. Mình già rồi bây giờ làm gì được nữa đây ? Trước đây sư phụ đã truyền nghề, tổ cũng đã ưu đãi một thời gian dài nỡ lòng nào phụ thầy, phụ tổ hở anh" - ông Châu chia sẻ.
Rời khỏi cái lò rèn nằm giữa chốn thành thị phồn hoa, sau lưng tôi, người đàn ông ở độ t.uổi 60 vẫn rắn rỏi, giáng từng nhát búa xuống thanh sắt đỏ lửa, tạo nên những âm thanh "chát cụp, chát cụp"...đã đi vào lòng người hơn 30 năm qua.
Theo Dantri
Tự làm giá gài trang sức như ngoài tiệm Với cách làm cực kỳ đơn giản, bạn sẽ có được chiếc giá gài trang sức gọn gàng mà sành điệu như ngoài tiệm kim hoàn. Chuẩn bị: Khay gỗ hay nắp hộp bìa cứng mà bạn có thể tận dụng từ hộp đồ, hộp bánh kẹo cũVải nhung nỉ màu tối như nâu đỏ, tím than,...Mút mỏng; Keo dánKéo, búa, dao dọc...