1001 thắc mắc: Hồ Hillier nằm ở đâu, vì sao nước có màu hồng ‘ma quái’?
Hồ nước này có màu hồng đáng kinh ngạc, Nước hồ đậm màu đến mức nếu múc một cốc nước thì nước trong cốc vẫn có màu hồng và có độ mặn còn hơn biển chết.
Ngoài khơi bờ biển phía nam Tây Australia là một chuỗi hòn đảo có tên Recherche. Middle là hòn đảo lớn nhất, vùng đất tự nhiên không có người ở được bao phủ bởi những cánh rừng bạch đàn dày đặc.
Quần đảo này lần đầu xuất hiện trên bản đồ nhờ nhà thám hiểm người Anh tên Matthew Flinders. Tháng 1/1802, thuyền trưởng Flinders cập bờ và leo đến đỉnh cao nhất của hòn đảo, nơi sau này mang tên của ông (Flinders Peak).
Khám phá hòn đảo, Flinders ngạc nhiên khi thấy “một hồ nhỏ màu hồng” ở phía đông bắc, ông ghi lại trong nhật ký hành trình của mình.
Nhà thám hiểm đã đặt tên cho hồ là William Hillier, tên của một thuyền viên qua đời vì bệnh lỵ khi tàu vừa cập bến đảo Middle. Sau khi kiểm tra, các thuyền viên phát hiện ra nước hồ có độ mặn cao tương đương với Biển Chết, và họ có thể thu hoạch muối từ bờ hồ.
Màu hồng của hồ Hillier đậm đến mức nếu ai đó múc một cốc nước thì nước trong cốc vẫn có màu hồng.
Màu hồng của Hồ Hillier thấy rõ nhất từ trên cao, nơi màu hồng tương phản mạnh mẽ với màu xanh của những cánh rừng xung quanh. Nếu đi dưới đất đất liền, du khách thường bị lạc và hay than phiền rằng ở dưới đất màu hồng nhìn không rõ như trên cao.
Trước đó, một số nhà khoa học cho rằng màu sắc này do tảo hoặc do hàm lượng muối tại hồ ở ngưỡng cao hơn bình thường. Tuy nhiên, khi phân tích DNA mẫu nước tại hồ thì kết quả cho thấy có khoảng 10 loại vi khuẩn ưa muối và một lượng lớn chủng loại tảo dơn bào Dunaliella đều mang sắc tố đỏ và hồng.
Nhưng trong số đó lại có 33% số lượng ADN được xác định thuộc về loài vi khuẩn chứa carrotene mang sắc tố của màu cà rốt có tên Salinibacter ruber. Như vậy, chính vi khuẩn mới là yếu tố then chốt để tạo ra màu sắc đặc trưng của hồ Hiller chứ không phải loài tảo như đã phỏng đoán.
Không thể bơi nổi trên hồ Hillier
Cũng giống như Biển Chết, không ai có thể bơi được ở hồ Hillier bởi nồng độ muối cao hơn hẳn các hồ nước thông thường. Vì vậy, nếu chẳng may chúng ta có rơi xuống mặt hồ thì cơ thể của chúng ta cũng sẽ được “nâng” lên bề mặt mà không có chút hiểm nguy nào. Để tham quan hồ Hillier, bạn chỉ có thể di chuyển bằng trực thăng.
Ngoài Hillier, trên thế giới còn một số hồ nước màu hồng độc đáo như: Hồ Retba (hay còn gọi là Lac Rose) nằm ở phía Bắc bán đảo Cap Vert, phía Đông Bắc thủ đô Dakar, Senegal. Hồ Salina de Torrevieja và La Salina de La Mata là 2 hồ muối bao quanh Torrevieja, một thành phố ven biển ở Đông Nam Tây Ban Nha. Hồ Dusty Rose nằm ở British Columbia, Canada và có những đặc tính kỳ lạ. Mặc dù hồ không có muối hay tảo, nhưng nước vẫn có màu hồng. Hay Masazirgol (còn gọi là hồ Masazir) là hồ muối ở vùng Qaradag, gần Baku, Azerbaijan.
5 hồ nước có màu vô cùng đặc sắc
Hồ Hồng Hạc Nakuru là một trong 3 hồ liền nhau tại tỉnh Rift Valley của Kenya. Hồ nước mặn này nằm ở độ cao 1.754 m so với mực nước biển. Tại đây có hàng triệu chim hồng hạc sinh sống. Trong hồ có nguồn tảo rất phong phú và đa dạng là lý do loài chim quý và tuyệt đẹp này ở lại làm tổ. Đây là một trong ba địa điểm trên thế giới có thể thưởng ngoạn được cảnh tượng có một không hai.
Hồ Gjende (Na Uy) có độ dài 18 km (11 dặm). Xung quanh mặt hồ được bao bọc bởi những ngọn núi cao dựng đứng. Khung cảnh tại đây mang màu xanh lục bảo của cây cối, thiên nhiên và màu xanh ngọc từ mặt hồ trong vắt.
Hồ nước nóng Boiling (Dominica) nằm ở độ cao 762 m so với mực nước biển. Du khách đến đây không thể bơi lội hay lướt sóng vì nhiệt độ luôn ở mức 800-950 độ C. Bạn chỉ có thể ngâm mình quanh ven hồ, nơi nhiệt độ dịu hơn nhiều. Từ xa, những làn khói nước trắng xóa bốc hơi xung quanh hồ Boiling sẽ khiến bạn ngây ngất.
Hồ Retba (Senegal) còn có tên gọi khác là Lac Rose. Đây là điểm tham quan thu hút du khách khi đến Senegal (Tây Phi). Điểm đặc biệt của hồ là màu nước mang sắc hồng tím. Đôi khi, tùy vào thời gian trong ngày mà nước hồ sẽ chuyển từ màu tím nhạt đến đỏ tươi hoặc màu hồng đậm do lượng vi khuẩn vô hại phát triển mạnh trong môi trường mặn của nước hồ.
Hồ Kelimutu (Indonesia) là hồ có 3 ba màu nằm trên miệng núi lửa Moni thuộc vườn quốc gia trên đảo Flores. Đây là dãy hồ gồm 3 hồ nước có màu đỏ, xanh lá và xanh dương. Qua mỗi mùa trong năm, Kelimutu còn có khả năng đổi màu độc đáo.
7 hồ nước độc đáo trên thế giới. Clip nguồn youtube.
1001 thắc mắc: Loài cá nào chỉ mất 20 ngày để chuyển giới từ cái thành đực?
Cá bàng chài cái khi chuyển giới thành con đực hormone nữ tắt trong 1 - 2 ngày, mọc tinh hoàn và sẵn sàng giao phối với cá cái khác.
Nhà nghiên cứu Erica Todd ở Đại học Otago, New Zealand, và cộng sự thu thập một số con cá bàng chài đầu xanh đực tại vài địa điểm ở rạn san hô ngoài đảo Key Largo ở Florida để thúc đẩy cá cái chuyển giới. Sau đó, họ bắt những con cá cái đang chuyển giới và xem xét những gì diễn ra bên trong cơ thể chúng.
Các nhà nghiên cứu phát hiện việc mất con đực khiến một số con cái căng thẳng. Chúng trở nên hung dữ hơn và bắt đầu thể hiện hành vi tán tỉnh thường thấy ở con đực. Ở những cá thể nổi trội trong đàn, gene gắn liền với hormone nữ tắt trong 1 - 2 ngày, màu sắc của chúng bắt đầu thay đổi. Thông thường, cá cái có màu vàng hoặc nâu trong khi cá đực có màu xanh lá cây và xanh dương.
Cùng lúc, mô sản sinh trứng trong buồng trứng của cá bàng chài đầu xanh cái bắt đầu thu nhỏ và bị thế chỗ bởi mô sản sinh tinh trùng. Chỉ sau 8 - 10 ngày, buồng trứng ở cá trưởng thành biến đổi thành tinh hoàn, con cá có thể giao phối với cá cái khác và sinh sản.
Sau 20 ngày, con cá có đủ màu sắc của cá đực và quá trình chuyển giới hoàn tất. "Cá bàng chài đầu xanh gây ấn tượng về tốc độ. Những loài khác mất thời gian lâu hơn", Todd nhận xét.
Khoảng 500 loài cá có thể chuyển giới. Phổ biến nhất là cá cái chuyển giới thành cá đực nhưng ở một số loài như cá hề, con đực có thể chuyển giới thành con cái. Ít nhất một loài là cá diều hâu ở phía nam Nhật Bản, con cái không chỉ có khả năng chuyển giới thành con đực mà còn quay trở lại giới tính ban đầu được nếu cần.
Loài động vật ăn thịt
Họ Cá bàng chài (danh pháp khoa học: Labridae) là một họ cá biển với nhiều loài có màu sặc sỡ. Họ này lớn và đa dạng, với khoảng 500 loài trong 60 chi.
Chúng nói chung là các loài cá nhỏ, chủ yếu dài không quá 20 cm, mặc dù loài lớn nhất, cá mó đầu gù, có thể dài tới 2,5 m. Chúng là các loài động vật ăn thịt có hiệu quả, tìm kiếm các nguồn thức ăn chủ yếu là các động vật không xương sống nhỏ. Nhiều loài cá bàng chài nhỏ bơi theo các đàn cá lớn hơn để kiếm ăn, bắt các động vật không xương sống bị chúng làm náo động.
Các loài cá bàng chài có miệng có thể kéo dài ra được, thường với các răng quai hàm tách biệt thò ra ngoài. Nhiều loài có thể dễ dàng nhận biết nhờ các môi dày của chúng, với phần mé trong gập nếp một cách kỳ dị, một nét đặc biệt mà nhờ đó chúng có tên gọi khoa học là "cá môi".
Những loại cá có khả năng chuyển đổi giới tính
Cá hề (clownfish) có cơ thể màu da cam với ba vạch màu trắng. Chúng là động vật lưỡng tính với khả năng sinh sản giống cả con đực và con cái, theo Mother Nature Network. Tuy nhiên, cá hề không sản xuất trứng và tinh trùng cùng lúc. Chúng sinh ra với một giới tính nhưng có thể chuyển sang giới tính khác nếu cần thiết.
Cá hawkfish sống thành đàn nhưng chỉ có duy nhất một con cá đực đồng thời cũng là con cá lớn nhất trong đàn. Khi con cá đực chết hoặc mất tích, một trong số các con cá cái sẽ biến đổi thành con đực để thay thế vị trí đó.
Những con cá vược đực sống trên nhiều con sông trên khắp nước Mỹ có những bộ phận cơ thể giống con cái. Ví dụ, các nghiên cứu cho thấy khoảng 70 - 90% số lượng cá vược đực ở khu vực đông nam nước Mỹ bây giờ là động vật lưỡng tính. Chúng có tế bào trứng chưa trưởng thành phát triển trong tinh hoàn.
Trong khi hầu hết các loài cá chình moray được sinh ra là con đực hoặc con cái và duy trì giới tính này cho đến hết đời, tuy nhiên có một số ít là loài lưỡng tính. Ví dụ, loài cá chình moray ruy băng (ribbon moray) trong hình ở trên có thể chuyển đổi từ đực sang cái.
ĐỖ HỢP (T/H)
Leedsichthys: "Máy hút bụi" của biển cả Kỷ Jura từng bị hiểu nhầm là khủng long Leedsichthys là một loài cá khổng lồ của họ Pachycormidae, một nhóm cá xương Đại Trung Sinh đã sinh sống ở các đại dương giữa kỷ Jura. Leedsichthys (Leeds) là một loài cá khổng lồ được phát hiện lần đầu tiên ở Anh vào thế kỷ 19 bởi một nhà quý tộc tên là Alfred Nicholson Leeds. Ông là một nhà nghiên cứu...