Yến tiệc triều đình Việt Nam đãi sứ thần có những món gì?
Trong các cuộc bang giao với nước ngoài, ta thường đọc thấy các vị vua Việt đãi yến các sứ đoàn, mà không biết các sứ đoàn được đãi những món gì.
Trong sách Việt Hoa thông sứ sử lược của Sông Bằng và Vân Hạc (xuất bản lần đầu năm 1943, NXB Hồng Đức tái bản 2014), khi viết về sự kiện năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhà Thanh cử Phan Cung Thì, án sát sứ Quảng Tây làm chánh sứ sang phong vương cho vua Minh Mạng tại Thăng Long, có miêu tả chi tiết bàn yến nhà vua đãi sứ.
Theo đó, trong buổi tiễn sứ thần về nước sau khi tuyên phong, triều đình nhà Nguyễn đã thiết đại tiệc. Bữa tiệc có một bàn có 50 đĩa đồ ăn thượng hạng, 7 bàn có 40 đĩa đồ ăn trung hạng và 25 bàn có 30 đĩa đồ ăn hạ hạng.
Tiệc ở bàn thượng hạng thường có các món ăn gồm: 2 bát yến, 1 bát vây (có lẽ là vây cá mập), 1 bát long tu, 1 bát hải sâm, 1 bát cá mực, 1 bát gà quay, 1 bát gà giò chần, 1 bát vịt hầm, 1 bát tôm he, 1 bát thịt dê, 1 bát cua, 1 bát chân giò nhồi thịt, 1 bát gà mái quay, 1 bát chim bồ câu, 1 bát nhung (không rõ có phải là nhung hươu hay không).
Ngoài ra, sách Việt Hoa thông sứ sử lược còn cho biết trên bàn tiếp sứ có cả những món mà chúng ta ngày nay coi là đồ ăn bình dân, như 1 bát thịt lợn luộc, 1 bát thịt lợn quay, 1 bát thịt kho tàu, 1 bát thịt ba chỉ thái nhỏ, 1 bát chân giò ninh, 1 bát vịt quay, 1 bát vịt luộc và 1 bát lòng lợn.
Về đồ tráng miệng, sách liệt kê gồm các loại bánh sau, mỗi loại một đĩa: bánh nhân vừng, bánh rán, bánh cao, bánh ngọt nhuộm phẩm ngũ sắc, bánh ngọt không nhuộm, bánh trứng gà, bánh bột sắn (có lẽ màu đục), bánh bột sắn trắng, bánh phu thê, bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh gừng, ngoài ra có thêm 1 đĩa xôi nhuộm xanh và 1 đĩa xôi nhuộm đỏ và 2 bát chè đậu xanh.
Các loại mứt trong cung đình nhà Nguyễn rất tinh tế. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Về các loại hoa quả, có các đĩa đựng quýt, cam, chuối, nho, táo, xoan trà, cùng các đĩa bánh ngọt tạc theo hình bát bảo, bánh ngọt tạc theo hình tứ linh (long, ly, quy, phượng), bánh ngọt xếp hoa, bánh ngọt xếp theo hình ốc hến, bánh ngọt cắt hình tròn mà dẹt. Đồ ăn vặt kèm theo còn có các đĩa mứt bí, lạc, hạt dưa, mứt gừng…
Còn trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (NXB Trẻ, 2014), phần Bang giao chí, chỉ viết về việc tiếp sứ cuối thời Lê trung hưng: “Lệ thết yến khâm sứ là hai ngày đặt một buổi, mỗi buổi 30 mâm. Còn các thức ăn quý hàng ngày ban cho”.
Sách này cũng ghi sự kiện sứ nhà Minh sang sắc phong cho vua Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 3 (1462) là Tiên Phổ, khi ra về được nhà vua đưa tặng lễ vật, đã viết thư cảm ơn và từ chối nhận lễ vật rằng: “Từ khi chúng tôi ở sứ quán, được vương tiếp đãi rượu thịt và đồ ăn đầy đủ”.
Video đang HOT
Tuy không nói rõ về các món ăn dành cho các vị sứ thần, nhưng sách của Phan Huy Chú cũng cho đời sau biết danh mục những thực phẩm cung đốn cho chánh sứ, ví dụ tại trạm Gia Quất (Gia Lâm), bao gồm: Gạo trắng 20 bát, lợn 1 con, dê 1 con, cá tươi 5 con, trứng 30 quả, cá khô 10 con, gà 3 con, vịt 3 con.
Ngoài các lương thực, danh mục vật dụng cung đốn còn có thêm thóc 5 bát, đậu xanh 4 bát, vừng 1 bát, rượu 1 vò, cùng các loại gia vị như muối 1 sọt, nước mắm 1 chĩnh, dấm 1 chĩnh, hồ tiêu 2 lạng, cùng 1 sọt rau, gừng, hành, tỏi. Tuy chúng ta không rõ các vị sứ thần có ăn trầu như phong tục người Việt không, nhưng ở trạm khách phải cung cấp trầu không 1 sọt, cùng cau tươi và 1 bình vôi.
Với những người tùy tùng của sứ đoàn, trạm Gia Quất cung đốn ngoài gạo thì có gà 20 con, vịt 20 con, lợn 2 con, rượu 4 vò, trứng 200 quả, rau 2 sọt, cùng các thức gia vị như muối, nước mắm, dấm và củi gỗ.
Riêng ở trạm Thọ Xương, có lẽ do là trạm gần kinh thành nhất, nên đồ tiếp tế ngoài lợn và dê, còn có thêm trâu 2 con, bò 2 con. Số lượng gà, vịt, ngỗng, cá và trứng cũng đều tăng hơn hẳn ở trạm trước, ngoài ra có thêm các loại hoa quả như cam 500 quả, dừa 200 quả, chuối tiêu tới 1.000 quả.
Bang giao chí còn ghi chép chi tiết các loại vật dụng cung cấp cho các sứ đoàn nhà Thanh ở mỗi trạm, từ nhà trạm, các bộ bàn, giường, chiếu, màn, đèn, dầu, rồi mâm, bát, đĩa, chén, đũa, thìa, bình uống rượu cho đến những loại vật dụng nhà bếp như xanh, chảo, nồi, vò, chậu, gáo, cho đến rổ, rá, dao, búa, thớt…
Theo Zing
Chiến tranh Tống-Kim và nỗi nhục hiếm thấy của một triều đại Trung Hoa
Sau giai đoạn phát triển cực thịnh, sự trỗi dậy của nhà Kim ở phương bắc đã đánh dấu giai đoạn chìm trong khói lửa của nhà Tống và để lại cho người Trung Hoa nỗi nhục hiếm thấy trong lịch sử.
Nhà Tống là triều đại hiếm hoi ở Trung Hoa có kinh đô bị kẻ thù chiếm, hoàng đế bị bắt sống.
Mối quan hệ hòa hoãn Tống-Liêu kéo dài suốt hơn 100 năm, đến khi binh biến nổ ra ở phương bắc. Nhà Kim do tộc người Nữ Chân thành lập ở Hội Ninh phủ (nay thuộc Hắc Long Giang). Thủ lĩnh tộc người Nữ Chân là Hoàn Nhan A Cốt Đả xưng là Kim Thái tổ, tiến quân đánh Liêu, theo Ancient.eu.
Nỗi nhục hiếm thấy trong lịch sử
Năm 1120, nhận thấy quân Kim đang chiếm ưu thế, nhà Tống thời Tống Huy Tống chủ trương liên minh với Kim đánh Liêu, hi vọng nhân cơ hội này đòi lại vùng Yên Vân mà Liêu chiếm đóng trước đây. Theo kế hoạch, sau khi thắng lợi, đất Yên Vân trả về cho Tống. Nhà Tống đem số vàng bạc, số lụa hàng năm tặng cho Liêu trước đây, nộp cho Kim.
Nhưng chiến dịch quân sự của nhà Kim diễn ra suôn sẻ bao nhiêu thì ở phía nam, quân Tống rệu rã đến mức hai lần xuất quân đánh Liêu, nhưng đều thất bại, sau đánh thành Yên Kinh (ngày nay là Bắc Kinh) cũng không xong.
Nhà Tống lại phải nhờ đến quân Kim. Kim hạ được Yên Kinh rồi hạ luôn mấy kinh đô nữa của Liêu. Vua Liêu mất nước, bị bắt sống năm 1125. Nhà Kim lúc đó do Kim Thái Tông Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi nắm quyền, thay cho Kim Thái tổ qua đời.
Sau khi diệt Liêu, thấy triều đình nhà Tống hủ bại, bị gian thần kiểm soát, Kim Thái Tông quyết định thừa thắng đánh tiếp xuống phía nam. Tống Huy Tông hoảng sợ vội viết chiếu thư thoái vị, nhường cho thái tử Triệu Hoàn lên ngôi, gọi là Tống Khâm Tông.
Nhà Tống không làm sao đối phó được với các bộ tộc du mục phương bắc, bao gồm cả nhà Kim và sau này là Mông Cổ.
Nội bộ triều đình nhà Tống khi đó không thống nhất được xem nên hòa hay nên đánh. Tống Khâm Tông và tể tướng Lý Bang Ngạn, Trương Bang Xương, chủ trương chịu nhục cầu hoà, đồng ý cắt đất cho Kim. Phái chủ chiến của Lý Cương cho rằng cần phải đánh lại vì vua mới lên ngôi.
Không cần chờ vua tôi nhà Tống suy nghĩ. Đầu năm 1126, quân Kim đã đánh đến kinh đô Biện Kinh (nay là Khai Phong). Lúc này, phong trào Cần vương ở các địa phương sôi nổi, người dân đồng loạt đứng lên cứu viện.
Quân Kim thấy vậy liền chủ động lui quân về phía bắc để củng cố lực lượng, đem theo một lượng lớn vàng bạc, châu báu mà nhà Tống giao nộp. Nhà Tống khi đó tưởng mọi chuyện đã xong, chủ quan không phòng bị.
Tháng 8 năm 1126, sau một mùa hạ chỉnh đốn lực lượng, quân Kim lại vây thành Biện Kinh. Vua tôi nhà Tống dũng mãnh chiến đấu, nhưng cũng chỉ cầm chân được quân Kim trong vòng 4 tháng thì đầu hàng, thành Biện Kinh thất thủ.
Tháng 1.1127, quân Kim lần lượt đem Tống Huy Tông, Tống Khâm Tông về kinh đô nước Kim, vĩnh viễn không bao giờ được trở lại Trung Hoa. Bị bắt theo hai vua Tống còn có tông thất hơn 3.000 người, của cải triều đình nhà Tống bị cướp sạch. Sử sách gọi đây là sự kiện Tĩnh Khang, là mối hận to lớn chưa từng thấy khi một triều đại Trung Hoa bị chiếm kinh đô, vua tôi bị bắt sống. Các sử gia sau này đánh giá đây là nỗi nhục hiếm thấy đối với một triều đại trong lịch sử Trung Hoa
Vua Tống hèn nhát, giang sơn chia cắt
Con trai thứ 9 của Tống Huy Tông là Triệu Cát may mắn trốn được xuống phía nam, lập nên triều Nam Tống, gọi là Tống Cao Tông.
Lúc Tống Cao Tông mới xuống phía nam, lãnh thổ Đại Tống vẫn còn nhiều. Nhưng vì lo sợ quân Kim kéo đến, Tống Cao Tông cho lui binh hẳn xuống thành Lâm An, (nay là Hàng Châu, Triết Giang). Quân Kim chiếm được Thiểm Tây, Sơn Đông và Hà Nam thì tạm yên, dù từng có lúc kéo đến sát bên ngoài thành Lâm An.
Nhạc Phi là điểm sáng hiếm hoi dưới thời nhà Nam Tống.
Dưới thời Tống Cao Tông, nhà Nam Tống chủ trương cầu hòa, không muốn kháng chiến. Nhưng do áp lực trong triều và từ người dân, Tống Cao Tống miễn cưỡng tổ chức các chiến dịch Bắc phạt, tuy không thành công nhưng cũng chặn được thế tiến công của quân Kim.
Nhà Nam Tống thời bấy giờ xuất hiện nhiều nhân vật kiệt xuất, chủ trương khôi phục giang sơn Đại Tống như xưa, nổi bật nhất trong số đó là danh tướng Nhạc Phi.
Ông là người duy nhất đánh sâu vào lãnh thổ Bắc Tống năm xưa, khiến quân Kim khiếp đảm. Nhưng đúng lúc sắp tiến đánh đến thành Biện Kinh, Nhạc Phi bị tể tướng Tần Cối triệu về kinh.
Người Kim vốn ôm hận Nhạc Phi sâu sắc, bắt triều đình nhà Tống phải giết hại Nhạc Phi để làm điều kiện hoà nghị. Năm 1141, Nhạc Phi và con trai Nhạc Vân, bị tể tướng Tần Cối hạ độc chết. Các văn quan võ tướng hết lòng ủng hộ Nhạc Phi, kiên quyết chống Kim đều bị giáng chức hàng loạt.
Sau này, quan hệ Tống-Kim tạm thời bước vào giai đoạn ổn định. Nhà Nước Kim cũng có mấy lần xâm phạm phía nam, nhưng không thành công. Nam Tống cũng mấy lần Bắc phạt nhưng không giành thêm được một tấc đất nào.
Lịch sử Trung Hoa hình thành cục diện Nam-Bắc đối nghịch, giữa Nam Tống và nhà Kim, đến khi quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn chỉ huy xuất hiện mới chấm dứt được cục diện này.
Theo Danviet
Vụ án thi cử nổi tiếng nhất sử Việt: "Quan gian lận" thoát chết gang tấc Trong lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam, để hạn chế đến mức thấp nhất các gian lận, triều đình đã đưa ra các quy định nghiêm ngặt, người vi phạm có thể bị xử tử. Năm 1841, trong kỳ thi Hương tại Thừa Thiên, Cao Bá Quát trong vai trò là Sơ khảo (người chấm bài vòng đầu) tìm cách sửa...