Xử lý tài sản bảo đảm: Cần hành lang pháp lý đồng bộ
Thời gian qua, pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm đã góp phần tạo lập một môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi cho quá trình xử lý tài sản bảo đảm, giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, các quy định của pháp luật hiện hành vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu điều chỉnh của thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm.
Thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên có nghĩa vụ thanh toán nợ
Do đó, về lâu dài, cần phải thiết lập một hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm, trong đó, có quy định về xử lý tài sản bảo đảm thực sự đồng bộ, hoàn thiện.
Những bất cập về xử lý tài sản bảo đảm
Chưa tiếp cận giao dịch bảo đảm từ các nguyên lý của vật quyền bảo đảm:
Theo lý thuyết về vật quyền bảo đảm (quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm), người có vật quyền bảo đảm có quyền tuyệt đối, trực tiếp và ngay tức khắc đối với tài sản bảo đảm khi vật quyền bảo đảm đó được công khai hóa (được đăng ký) theo quy định của pháp luật.
Lý thuyết này cho phép bên có vật quyền bảo đảm (bên nhận bảo đảm) có quyền thu hồi tài sản bảo đảm để xử lý, ngay cả khi tài sản bảo đảm đó đang thuộc quyền chiếm giữ, kiểm soát và chi phối bởi các chủ thể khác.
Tuy nhiên, các khía cạnh pháp lý về nghĩa vụ được bảo đảm và giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2005 chưa được nghiên cứu, tiếp cận từ các nguyên lý của vật quyền bảo đảm. Do đó, quyền chủ nợ của bên nhận bảo đảm chưa được bảo vệ tương xứng với vị thế của chủ thể này trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, như quyền thu giữ tài sản bảo đảm, quyền truy đòi tài sản bảo đảm để xử lý, đặc biệt là đối với tài sản bảo đảm không đăng ký quyền sở hữu.
Một số quy định thiếu cụ thể, rõ ràng:
Thứ nhất, chưa quy định cụ thể về căn cứ xác định tư cách thành viên hộ gia đình, mặc dù một trong các căn cứ xác định giao dịch bảo đảm do hộ gia đình ký kết có hợp pháp hay không chính là xác định các thành viên của hộ gia đình. Cụ thể, ngoài định nghĩa về hộ gia đình tại Điều 106 Bộ luật Dân sự 2005, pháp luật hiện hành không có quy định hướng dẫn về tiêu chí, căn cứ pháp lý làm cơ sở xác định tư cách thành viên hộ gia đình.
Thực tế này đã dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến rủi ro trong việc xác định hiệu lực của hợp đồng thế chấp, cũng như khó khăn cho bên nhận bảo đảm trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm là tài sản chung của hộ gia đình.
Hai là, thiếu các quy định cần thiết nhằm hỗ trợ và thúc đẩy bên nhận bảo đảm thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý.
Về nguyên lý chung, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã giao kết, bên nhận bảo đảm có quyền truy đòi, thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Tuy nhiên, do việc chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý đồng nghĩa với việc bên bảo đảm bị mất tài sản đó, nên bên bảo đảm thường có thái độ bất hợp tác, chây ỳ và tìm cách trì hoãn việc chuyển giao tài sản bảo đảm.
Trước thực tế này, khoản 5 Điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định về sự hỗ trợ của UBND cấp xã và cơ quan công an đối với hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm trong vai trò “giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm”.
Việc quy định vai trò giữ gìn an ninh, trật tự của UBND và cơ quan công an trong quá trình bên nhận bảo đảm thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm là hợp lý, nhằm tránh tình trạng “hành chính hóa” các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại.
Tuy nhiên, hiện pháp luật chưa có các quy định cụ thể về việc UBND và cơ quan công an thực thi vai trò này như thế nào. Do vậy, trải qua gần 9 năm thi hành Nghị định 163, quy định nêu trên chưa thực sự phát huy hiệu quả như mong muốn.
Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy, bên nhận bảo đảm không chỉ có nhu cầu chính quyền giữ gìn an ninh trật tự trong trường hợp bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác, mà quan trọng hơn là hỗ trợ thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Vậy, cơ quan nào có thể giúp bên nhận bảo đảm thực hiện quyền năng này?
Theo quy định của pháp luật hiện hành, bên nhận bảo đảm chỉ có cách khởi kiện ra tòa án đòi tài sản và cơ quan thi hành án sẽ thực hiện công việc này sau khi bản án đã tuyên của tòa án có hiệu lực pháp luật. Nhưng quá trình này thường mất rất nhiều thời gian và chi phí của bên nhận bảo đảm.
Ba là, hoạt động xử lý tài sản bảo đảm chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ các quy định của pháp luật khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính, định giá tài sản bảo đảm, bán đấu giá tài sản…).
Một trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm là bán đấu giá tài sản. Thực tiễn cho thấy, hoạt động xử lý tài sản bảo đảm rất cần sự hỗ trợ từ chính các quy định và sự hoạt động chuyên nghiệp của tổ chức đấu giá và tổ chức định giá bán tài sản. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta hiện nay, hoạt động định giá chưa mang tính phổ biến và chuyên nghiệp, nên việc xác định giá bán tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn, thậm chí phát sinh nhiều tranh chấp, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý tài sản bảo đảm.
Video đang HOT
Quy trình tố tụng hiện hành cũng dẫn đến khó khăn cho chủ nợ có bảo đảm trong quá trình tiếp cận tài sản bảo đảm và giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm.
Trong nhiều trường hợp, hợp đồng bảo đảm đã được các bên ký kết theo đúng quy định của pháp luật (hợp đồng được công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm), nhưng khi phát sinh tranh chấp, tòa án vẫn phải giải quyết theo một quy trình tố tụng chung, dẫn đến hệ quả là tài sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ theo bản án, quyết định của tòa án do giá trị bị giảm, bị hư hỏng, bị tẩu tán.
Các quy định hiện hành về xác định quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm mới chỉ giới hạn trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, mà chưa đưa ra các nguyên tắc chung về xác định vị thế quyền của các chủ thể khác có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản tài sản bảo đảm.
Chẳng hạn, pháp luật về quản lý thuế chưa có quy định cụ thể về thứ tự ưu tiên thanh toán từ số tiền thu được do xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp nợ thuế, mà chỉ quy định nguyên tắc chung: “Trường hợp tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế do bên thứ ba đang nắm giữ là đối tượng của các giao dịch bảo đảm hoặc thuộc trường hợp giải quyết phá sản thì việc thu tiền, tài sản khác từ bên thứ ba được thực hiện theo quy định của pháp luật” (Điều 100, Luật Quản lý thuế 2006) và “Nếu đối tượng bị cưỡng chế không có tài sản nào khác thì cơ quan tiến hành kê biên có quyền kê biên cả tài sản của người đó đang cầm cố, thế chấp, nếu tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo. Cơ quan tiến hành kê biên có trách nhiệm thông báo cho người nhận cầm cố, thế chấp biết về việc kê biên” (điểm 5.9g khoản 5, Mục III, phần B của Thông tư số 157/2007/TT-BTC ngày 24/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế).
Bốn là, cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (bên có nghĩa vụ thanh toán nợ).
Việc chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm từ bên bảo đảm sang người mua, người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm bị xử lý được xem là khâu cuối cùng, đồng thời là kết quả của quá trình xử lý tài sản.
Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù pháp luật cho phép bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo giao dịch bảo đảm đã giao kết, nhưng khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm, việc định giá và chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm vẫn phải phụ thuộc nhiều vào ý chí của chủ sở hữu, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm trong quá trình xử lý, như chủ sở hữu tài sản bỏ trốn hoặc không chịu ký vào biên bản định giá tài sản hoặc không chịu ký văn bản chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua, bên nhận chính tài sản bảo đảm).
Ngoài ra, kết quả xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn phụ thuộc vào cách thức giải quyết của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản khi bên nhận bảo đảm thực hiện thủ tục sang tên, trước bạ đối với tài sản bảo đảm.
Khâu tổ chức đấu giá và định giá tài sản bảo đảm vẫn chưa mang tính chất chuyên nghiệp và phổ biến
Cần thiết lập một hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm
Để giải quyết một số vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, ngày 6/6/2014, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm.
Thông tư liên tịch số 16 đã tập trung giải quyết một số “điểm nghẽn” trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm hiện nay như: vấn đề thu giữ tài sản bảo đảm, về xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp có sự thay đổi về hiện trạng do bên thế chấp hoặc người thứ ba đầu tư, về chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm cho người mua, người nhận chuyển nhượng…
Tuy nhiên, trong khuôn khổ chật hẹp của một văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định, các nội dung quy định tại thông tư này vẫn chưa thể đáp ứng được kỳ vọng của thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm, do sự ràng buộc và hạn chế về nội dung pháp lý bởi chính các quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2013 và các nghị định hướng dẫn thi hành. Do đó, giải pháp lâu dài là nghiên cứu, sửa đổi các quy định tại các văn bản pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm.
Theo đó, dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng Dân sự (sửa đổi) và các văn bản khác có liên quan cần phải cụ thể hóa được mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ có bảo đảm trong sự hài hòa lợi ích của các bên khác có quyền và lợi ích liên quan.
Cụ thể, tiếp tục nghiên cứu, tiệm cận được chế định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dưới giác độ của các nguyên lý về vật quyền bảo đảm. Việc tiếp cận lý thuyết này cho phép bên nhận bảo đảm thực thi ngay các quyền xác lập trên tài sản bảo đảm phát sinh từ thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm đã ký kết, đồng thời giúp bên bảo đảm có khả năng tự mình xử lý khối tài sản bảo đảm và thu hồi lợi ích của mình trong thời gian nhanh nhất với thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất trong trường hợp đã đăng ký quyền phát sinh từ việc nhận tài sản bảo đảm (đăng ký vật quyền bảo đảm) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, cần rà soát để bãi bỏ những quy định không phù hợp với thực tiễn hoặc hạn chế các chủ thể thiết lập, thực hiện các giao dịch bảo đảm, như quy định “về giá trị của tài sản so với tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm (khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự 2005); quy định giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận thế chấp giữ trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất (khoản 1, Điều 717; khoản 5, Điều 718, Bộ luật Dân sự 2005)…; bãi bỏ các quy định về giao dịch bảo đảm còn mẫu thuẫn, chưa thống nhất; đồng thời nghiên cứu bổ sung một số quy định nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, như quy định bảo vệ quyền kiểm soát tài sản thế chấp do bên thế chấp hoặc người thứ ba đầu tư…
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định nêu trên sẽ góp phần giảm thiểu những rủi ro pháp lý, cản trở việc thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.
Ngoài ra, cần tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy việc bên nhận bảo đảm được quyền tiếp cận tài sản bảo đảm để xử lý nhanh chóng, hợp pháp. Theo đó, bên cạnh quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng rút gọn, bên nhận bảo đảm có quyền tự mình thu hồi tài sản bảo đảm dựa trên nguyên lý “không vi phạm điều cầm, trái đạo đức xã hội”.
Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm thời gian qua cho thấy, nếu tiếp tục duy trì cơ chế xử lý như hiện nay thì thời gian xử lý tài sản bảo đảm thường kéo dài, các thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm không được thực hiện nghiêm túc do phụ thuộc vào sự thiện chí của chủ sở hữu tài sản. Điều này đã ảnh hưởng đến mục tiêu thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm và làm tăng “sức ép” đối với hệ thống tòa án, cũng như tăng chi phí xã hội do phải thụ lý nhiều các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm.
Như vậy, có thể thấy, xử lý tài sản bảo đảm là hệ quả pháp lý của hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của bên bảo đảm. Kết quả xử lý tài sản bảo đảm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản), bên nhận bảo đảm (bên hưởng lợi từ việc xử lý tài sản bảo đảm) và các chủ thể khác có lợi ích liên quan (cơ quan nhà nước, người mua, người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm)…
Do quá trình xử lý tài sản bảo đảm rất dễ xảy ra các tranh chấp giữa các bên liên quan đến tài sản bảo đảm, nên cần phải thiết lập một hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm, trong đó, có quy định về xử lý tài sản bảo đảm thực sự đồng bộ, hoàn thiện.
Ths. Hồ Quang Huy, Phó Cục trưởng Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Xử lý nợ xấu gặp khó chủ yếu liên quan đến các quy định của pháp luật
"Tính đến cuối tháng 9/2015, việc xử lý nợ xấu đã hoàn thành chỉ tiêu Chính phủ đề ra... Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu vẫn gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân chủ yếu liên quan đến các quy định của pháp luật".
Tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng hiện đã được đưa về mức 3%
Đó là những thông tin được ông Nguyễn Phước Thanh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết trong cuộc trao đổi với ĐTCK.
Trong những cuộc họp gần đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa thông điệp quyết tâm sớm đưa tỷ lệ nợ xấu ngành ngân hàng đến cuối tháng 9/2015 xuống dưới ngưỡng 3%, tức là sớm hơn 3 tháng so với kế hoạch trước đó. Xin ông cho biết, tính đến thời điểm hiện tại, kết quả thực hiện mục tiêu này như thế nào?
Ông Nguyễn Phước Thanh
Tính đến cuối tháng 9/2015, có thể nói rằng, việc xử lý nợ xấu đã hoàn thành chỉ tiêu mà Chính phủ đề ra. VAMC đã xử lý được 13.320 tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng hiện đã được đưa về mức 3%, thậm chí trong vài ngày nữa, tỷ lệ nợ xấu có thể sẽ xuống dưới 3%.
Tính từ 1/1/2015 đến 15/9/2015, VAMC đã phát hành trái phiếu đặc biệt để mua 11.108 khoản nợ xấu của 37 tổ chức tín dụng (TCTD), tương ứng với 75.553 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng, giá mua là 69.070 tỷ đồng. Lũy kế từ 2013 đến 15/9/2015, VAMC đã phát hành trái phiếu đặc biệt mua nợ xấu đạt 204.228 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng, giá mua là 177.722 tỷ đồng.
Cùng với việc mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt, VAMC đã tích cực triển khai các công tác xử lý nợ xấu theo các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Đến nay, VAMC đã thực hiện thu hồi nợ, bán nợ, bán tài sản bảo đảm đạt 13.320 tỷ đồng; thực hiện điều chỉnh lãi suất cho 28 khoản nợ của 9 khách hàng với dư nợ gốc được điều chỉnh là 367 tỷ đồng; miễn, giảm lãi/phí cho 17 khách hàng với số tiền miễn giảm lãi là 66 tỷ đồng; cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 11 khách hàng với dư nợ gốc được cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 446 tỷ đồng. Ngoài ra, VAMC đã trao đổi với TCTD tiếp tục cấp hạn mức 950 tỷ đồng cho 2 khách hàng để hoàn thiện 2 dự án, đến nay đã giải ngân được 425 tỷ đồng.
Như vậy, có thể thấy, VAMC là công cụ hữu hiệu của Việt Nam trong quá trình xử lý nợ xấu không sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Sau hơn 2 năm đi vào hoạt động, VAMC đã giúp các TCTD giảm được dư nợ xấu hơn 210.717 tỷ đồng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thông qua cơ cấu nợ, miễn giảm lãi, tiếp cận vốn vay của TCTD.
Khi đưa được nợ xấu về ngưỡng an toàn không có nghĩa việc xử lý nợ xấu sẽ dừng lại, hoặc chuyển trách nhiệm cho các ngân hàng và VAMC. Ông có thể cho biết kế hoạch tiếp theo của NHNN sẽ như thế nào?
Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù tình hình thị trường và sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng chưa bền vững. Bên cạnh đó, thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó lường, có thể ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của các TCTD, tiềm ẩn rủi ro không thu hồi được nợ đúng hạn. Vì vậy, để tiếp tục xử lý và hạn chế phát sinh nợ xấu, trong thời gian tới, NHNN sẽ triển khai các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, hiệu quả, góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế hợp lý và an toàn hệ thống ngân hàng.
Hai là, chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc hỗ trợ, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy thị trường, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo điều kiện hỗ trợ xử lý và hạn chế phát sinh mới nợ xấu của TCTD.
Ba là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản trị rủi ro, an toàn hoạt động của các TCTD, trong đó ban hành, triển khai và áp dụng các quy định về quản trị rủi ro của TCTD theo nguyên tắc Basel; hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC và các TCTD.
Bốn là, đẩy mạnh công tác quản lý, thanh tra, giám sát, bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD; phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật trong hoạt động tín dụng.
Năm là, yêu cầu các TCTD tiếp tục tích cực, chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu; hạn chế, ngăn ngừa nợ xấu phát sinh mới.
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm an toàn, hiệu quả; tăng cường năng lực về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực của VAMC để VAMC triển khai thực hiện việc mua, bán nợ xấu theo cơ chế thị trường theo quy định của pháp luật; triển khai có hiệu quả các giải pháp xử lý nợ xấu đã mua từ TCTD.
VAMC là công cụ hữu hiệu của Việt Nam trong quá trình xử lý nợ xấu không sử dụng vốn ngân sách nhà nước
Đánh giá lại 3 năm xử lý nợ xấu vừa qua, ông có thể cho biết đâu là kinh nghiệm quan trọng cần rút ra nhằm tránh nợ xấu phát sinh lớn trong tương lai?
Việc xử lý nợ xấu trong 3 năm qua ghi nhận sự quyết tâm, nỗ lực của toàn ngành ngân hàng và sự hỗ trợ của các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai các giải pháp xử lý nợ xấu theo Quyết định số 843 của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả đạt được về xử lý nợ xấu đã góp phần quan trọng trong việc tái cơ cấu, lành mạnh hóa tài chính của các TCTD, đặc biệt trong việc cải thiện thanh khoản, ổn định và giảm mặt bằng lãi suất, thúc đẩy mở rộng tín dụng cho nền kinh tế một cách an toàn, hiệu quả.
Qua quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng có thể rút ra một số vấn đề quan trọng nhằm ngăn ngừa nợ xấu phát sinh lớn, như sau:
Thứ nhất, Nhà nước phải tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định để các thành phần kinh tế hoạt động và phát triển bền vững. Theo đó, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần xây dựng được chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội có tính đồng bộ, ổn định; đồng thời việc triển khai các giải pháp, cơ chế chính sách phải minh bạch, công khai để mọi doanh nghiệp, người dân có thể chủ động trong lập và triển khai kế hoạch của mình.
Thứ hai, các TCTD mở rộng tín dụng phải đi cùng với kiểm soát chất lượng tín dụng, nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
Thứ ba, cần nâng cao năng lực quản trị, điều hành của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh và tự phòng vệ của nền kinh tế và doanh nghiệp trước những ảnh hưởng tiêu cực của biến động kinh tế thế giới và khu vực.
Thứ tư, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, thanh tra, giám sát của Nhà nước đối với doanh nghiệp, TCTD; phát hiện, cảnh báo và xử lý nghiêm các vi phạm quy định của pháp luật về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Một vấn đề mà các ngân hàng đề cập là cơ chế xử lý nợ xấu ở Việt Nam vẫn còn yếu, đặc biệt là việc tạo lập thị trường mua bán nợ và các giải pháp hỗ trợ ngân hàng chủ động xử lý nợ xấu. Ông có thể cho biết thêm về vấn đề này?
Về cơ chế xử lý nợ xấu, hiện Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ, đến nay, những đơn vị được tham gia mua nợ chỉ có DATC, VAMC và các AMC của TCTD. Ngoài ra, chưa có đơn vị nào được cấp đăng ký kinh doanh mua bán nợ theo quy định tại Luật Đầu tư 2014 và Luật số 69/2014/QH13 của Quốc hội về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật 69/2014/QH13), dẫn đến VAMC mua nợ xấu từ các TCTD nhưng không thể bán nợ cho các đơn vị khác ngoài DATC và AMC của các TCTD. Cũng do những quy định tại Luật Đầu tư 2014, Luật 69/2014/QH13, nhà đầu tư nước ngoài chưa thể tham gia hoạt động xử lý nợ xấu tại Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, VAMC mới chỉ mua nợ xấu từ các TCTD và bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tuy nhiên, việc xử lý dứt điểm khoản nợ xấu đối với khách hàng còn bất cập, vì khi VAMC bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu thì khách hàng vẫn phải tiếp tục nhận nợ phần còn thiếu (cả gốc và lãi). Trường hợp mua bán theo giá trị thị trường, trách nhiệm phần nợ còn thiếu của khách hàng với VAMC chưa được quy định rõ ràng cho dù VAMC bán tài sản bảo đảm có lãi. Cụ thể, sau khi VAMC bán tài sản bảo đảm thu hồi đủ giá trị nợ xấu đã mua thì khách hàng có phải trả nợ tiếp không? Nếu khách hàng không có khả năng trả nợ tiếp thì VAMC được phép miễn giảm lãi, gốc như thế nào? Những vấn đề này chưa rõ ràng về hành lang pháp lý để VAMC có thể xử lý nhanh nợ xấu của các TCTD.
Việc thu giữ, phát mại tài sản bảo đảm gặp rất nhiều khó khăn khi khách hàng không hợp tác. VAMC không thể thu giữ được tài sản bảo đảm ngay cả trong trường hợp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp có nội dung yêu cầu bàn giao tài sản bảo đảm nếu khách hàng không trả được nợ. Việc thu giữ tài sản bảo đảm thường thực hiện thông qua tòa án, nên VAMC không thể xử lý nhanh nợ xấu do những vướng mắc về thủ tục pháp lý trong xử lý tài sản bảo đảm.
Về vấn đề tạo lập thị trường mua bán nợ (bao gồm cả thị trường sơ cấp và thứ cấp): đây là yêu cầu cấp thiết cho công tác xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, hiện tại, Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ tập trung chính thức; các quy định pháp lý về tạo lập và hoạt động của thị trường mua bán nợ chưa được ban hành. Các nhà đầu tư quan tâm còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin về nợ xấu và tài sản bảo đảm. Còn thiếu các chính sách hỗ trợ nhà đầu tư sau khi mua nợ, chuyển giao khoản nợ, tài sản bảo đảm, đặc biệt đối với tài sản bảo đảm là bất động sản, quyền sử dụng đất.
Một trong những khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu hiện nay là vấn đề pháp lý do liên quan tới rất nhiều văn bản luật như bán tài sản cầm cố, vai trò chủ nợ, việc cho phép tuyên bố phá sản của con nợ... Về vấn đề này, NHNN có giải pháp như thế nào?
Hiện nay, việc xử lý nợ xấu gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu liên quan đến các quy định của pháp luật (liên quan đến quy định tại 6 bộ luật, luật và nhiều văn bản dưới luật), như quy định pháp luật còn thiếu, quy định không phù hợp với thực tiễn, quy định mâu thuẫn, chồng chéo nhau, các cơ quan, người có thẩm quyền hiểu và áp dụng pháp luật chưa thống nhất...
Với mục tiêu đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, thời gian qua, NHNN đã tích cực, chủ động triển khai các biện pháp, như rà soát, tổng kết những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm, trên cơ sở đó, trình Chính phủ báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xử lý các khó khăn, vướng mắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và giao các bộ, ngành liên quan xử lý các khó khăn, vướng mắc thuộc thẩm quyền của Chính phủ, các bộ, ngành; phối hợp với các bộ liên quan ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm; phối hợp với Bộ Tư pháp ban hành và triển khai thực hiện Quy chế phối hợp trong công tác thi hành án dân sự; phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao trong việc xây dựng Luật Phá sản, xử lý các vướng mắc trong quá trình mua, bán nợ của VAMC...
Đồng thời, NHNN cũng đã ban hành các thông tư quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, thông tư về mua, bán nợ của tổ chức tín dụng...
Trong thời gian tới, để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm, bảo đảm quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD, NHNN sẽ tiếp tục có ý kiến góp ý đối với các dự thảo bộ luật, luật đang được Quốc hội xem xét thông qua như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự. Đồng thời, NHNN sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan, đặc biệt là Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định dưới luật không phù hợp, nhằm khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của TCTD.
Hồng Dung thực hiện.
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Sắp xếp đổi mới nông trường không khéo lại đi vào "vết xe đổ" Thực tế cho thấy viêc đổi mới sắp xếp của các nông lâm trường ở Nghê An có thể lại đi vào "vết xe đổ" trước đó. Những vườn chè bạt ngàn xanh tươi dưới nắng vàng ở xã Hạnh Lâm, huyện Thanh Chương, Nghệ An cho thấy cây chè có vai trò quan trọng đối với đời sống của người dân địa...