Xử lý phế liệu tồn đọng tại cảng Tân Cảng – Cát Lái gặp khó
Hàng nghìn container phế liệu và container hàng hoá quá hạn không có người nhận tồn đọng tại cảng Tân Cảng – Cát Lái (TP Hồ Chí Minh) đang chờ được xử lý.
Quang cảnh cảng Tân Cảng – Cát Lái. Ảnh tư liệu: Tiến Lực/TTXVN
Biện pháp khả thi nhất hiện nay đối với phế liệu không đủ điều kiện nhập khẩu, không đạt quy chuẩn quốc gia về môi trường là tiêu huỷ còn với hàng hoá quá hạn không có người nhận là bán đấu giá nộp vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, việc xử lý các container này hiện đang gặp khó do vướng nhiều quy trình, thủ tục và tốn kém cả thời gian và chi phí.
Tiêu huỷ phế liệu chậm
Ông Nguyễn Thanh Long, Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 (Chi cục Hải quan Tân cảng Cát Lái) cho biết, số lượng container tồn đọng tại cảng Tân Cảng – Cát Lái trong năm 2021 là 2.934 container, những tháng đầu năm 2022 phát sinh thêm 702 container. Đến hiện tại, đã kiểm kê, phân loại, bán đấu giá, tiêu huỷ, tái xuất, thông quan được tổng cộng 1.228 container. Như vậy, còn 2.408 container cần xử lý, trong đó khoảng 1.600 container là phế liệu.
Từ cuối tháng 3/2022, Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 bắt đầu triển khai kế hoạch tổ chức tiêu hủy 357 container trong tổng số 682 container phế liệu mà Tổng cục Hải quan đã ra quyết định tiêu huỷ nhằm giải phóng mặt bằng cho cảng. Đây là số container phế liệu không đủ điều kiện nhập khẩu, không đạt quy chuẩn quốc gia về môi trường, tồn đọng nhiều năm qua.
Theo đó, 357 container 40 feet của 10 hãng tàu sẽ bị tiêu hủy tại các nhà máy xử lý chất thải công nghiệp ở TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Đồng Nai. Hình thức tiêu hủy là ép, xay cắt, sau đó đốt trong lò 2 cấp có hệ thống xử lý khí thải hoặc lò đốt chất thải công nghiệp. Tuy nhiên, tính đến 19/5, mới có 41 container phế liệu được tiêu hủy, bình quân mỗi ngày chỉ tiêu hủy được 1 container.
“Với tốc độ tiêu huỷ như hiện nay, chỉ riêng đợt tiêu huỷ đầu tiên phải mất hơn 1 năm và xử lý hết 682 contianer đã có quyết định tiêu huỷ phải mất đến 2 năm. Việc này không chỉ khiến tốc độ giải phóng chỗ trống cho cảng bị chậm mà còn ảnh hưởng đến nhân lực, năng suất làm việc của Chi cục Hải quan do phải cử người giám sát liên tục”, ông Nguyễn Thanh Long nêu vấn đề.
Theo ông Nguyễn Thanh Long, hiện Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 đã phân công 4 tổ công tác thực hiện giám sát việc tiêu hủy. Tổ giám sát có nhiệm vụ giám sát chặt chẽ từ cảng, nơi hàng hóa đi, lập biên bản bàn giao cho công ty xử lý môi trường.
Để việc tiêu hủy đúng quy định, đúng thời gian, các công ty xử lý môi trường sẽ chịu trách nhiệm vận chuyển nguyên trạng hàng hóa tiêu hủy về địa điểm tiêu hủy theo hợp đồng tiêu hủy và biên bản bàn giao. Việc vận chuyển thực hiện trước ít nhất một ngày theo lịch trình tiêu hủy để tạo thuận lợi cho việc giám sát.
Trước tình hình trên, Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh vừa qua đã có công văn gửi Tổng cục Hải quan, báo cáo những vướng mắc trong việc tiêu hủy phế liệu tồn đọng. Cụ thể, phần lớn các hãng tàu đều ký hợp đồng tiêu hủy tập trung với 3 công ty xử lý chất thải môi trường. Tuy nhiên các công ty này tiếp nhận xử lý phế liệu chủ yếu bằng phương pháp thủ công; công nhân đưa từng kiện hàng vào lò đốt bằng phương tiện thô sơ, xe nâng hạ, rút hàng hóa ra khỏi container một cách không chuyên nghiệp. Do đó, công suất tiêu hủy rất thấp, trung bình chỉ 1 tấn/giờ. Nếu hoạt động hết công suất cũng chỉ tiêu hủy 1 container/ngày.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, việc phải thực hiện đúng nội dung hướng dẫn tại Công văn 632 ngày 25/2/2022 của Tổng Cục Hải quan về tiêu hủy phế liệu cũng ảnh hưởng đến quá trình thực hiện. Chẳng hạn, trước khi cắt seal container để tiêu hủy hàng hóa, hội đồng giám sát phải chụp ảnh cửa container, chụp ảnh seal, lập biên bản mở container, ghi rõ số hiệu container, seal. Hội đồng giám sát còn phải lập biên bản xác nhận các bên liên quan cũng như lưu hình ảnh, biên bản vào hồ sơ xử lý tiêu hủy.
Toàn bộ quá trình tiêu hủy phải được giám sát từ khi cắt seal đến khi tiêu hủy toàn bộ lô hàng, tốn rất nhiều nhân lực. Tuy nhiên, cán bộ, công chức giám sát tiêu hủy chỉ làm việc 8 giờ/ngày, một số thời điểm không đủ thành viên tham gia đã khiến quá trình tổ chức tiêu hủy phế liệu bị gián đoạn và kéo dài.
Do đó, tiến độ tiêu hủy thời gian qua rất chậm, chưa kể điều kiện làm việc của cán bộ, công chức giám sát tiêu hủy không được bảo đảm, về lâu dài có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Quá trình xử lý tiêu hủy phế liệu bằng phương pháp đốt với nhiệt độ trên 1.000 độ C còn gây ô nhiễm môi trường, gây độc hại mà mắt thường không nhìn thấy được…
Do đó, Hội đồng Xử lý hàng tồn đọng Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh cũng đã gửi công văn cho Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành liên quan, đề nghị xem xét lại đánh giá tác động môi trường của việc tiêu hủy để có căn cứ báo cáo, đề xuất với Tổng cục Hải quan những biện pháp xử lý phù hợp.
Linh hoạt xử lý container hàng tồn
Hàng phế liệu nhập về cảng Tân Cảng – Cát Lái. Ảnh tư liệu: Hoàng Hải/TTXVN
Ngoài các container phế liệu, hiện cảng Tân Cảng – Cát Lái còn có trên 800 container hàng hoá tồn đọng thời gian dài cần được xử lý. Từ tháng 4/2022 đến nay, Cục Hải quan Tp. Hồ Chí Minh đã tiến hành tìm doanh nghiệp giám định chất lượng hàng hóa, chi tiết từng nhóm mã số hàng hóa theo danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam tại thời điểm có hiệu lực pháp luật nhằm giúp Hội đồng xử lý hàng hóa tồn đọng có cơ sở xem xét căn cứ xác định chính xác tình trạng hàng hóa tồn đọng.
Theo đó 538 container tồn đọng tại cảng Tân Cảng – Cát Lái đã được kiểm tra, phân loại bao gồm: máy móc thiết bị đã qua sử dụng, hàng gia dụng, hàng bách hóa, dược liệu, phụ tùng máy móc, phế liệu, hóa chất, gỗ lóng, cáp quang, hàng dự án…
Ông Nguyễn Thanh Long, Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 nhận định, Cảng Tân Cảng – Cát Lái luôn trong tình trạng hoạy động công suất cao nhưng quy trình xử lý hàng hoá tồn đọng hiện tại vẫn rất phức tạp, cứng nhắc và mất rất nhiều thời gian.
Đơn cử như việc xác định giá trị hàng hoá quá hạn lưu cảng, có thể dựa trên cơ sở trị giá khai báo hải quan để làm căn cứ nhưng quy định hiện nay không cho phép mà phải thuê công ty thẩm định giá độc lập, sau đó tổ chức đấu giá…Với các lô hàng hoá có giá trị thấp, chi phí thuê thẩm định giá và làm thủ tục đấu giá vừa bằng với giá bán lô hàng, không bổ sung được đồng nào vào ngân sách, trong khi đó lại tiêu tốn thời gian và nhân lực của Nhà nước.
Trong khi đó, ông Nguyễn Phương Nam, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn thông tin, kể từ khi dịch COVID-19, một số doanh nghiệp có xu hướng chậm nhận hàng khiến lượng container lưu cảng thời gian dài tăng lên, ảnh hưởng đến hoạt động của cảng. Đối với các container hàng hoá lưu cảng quá lâu, đơn vị khai thác cảng và hải quan phối hợp di dời sang các cảng khác như cảng Tân Cảng – Hiệp Phước hoặc di chuyển sang các cảng cạn nội địa (ICD) để giảm ùn tắc cục bộ trong những dịp cao điểm xuất, nhập khẩu.
Theo quy định hiện nay, các lô hàng container quá thời hạn 90 ngày kể từ ngày hàng đến cửa khẩu, đang lưu giữ tại các địa điểm thuộc cảng Chi cục Hải quan Cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực I đã ra thông báo tìm chủ hàng. Sau 60 ngày kể từ ngày thông báo mà chủ hàng không đến làm thủ tục nhận hàng thì hải quan sẽ thực hiện xử lý hàng hóa tồn đọng theo quy định tại Nghị định 29/2018/NĐ-CP ngày 05/03/2018 của Chính Phủ, Thông tư số 203/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 và Thông tư số 57/2018/TT-BTC ngày 05/7/2018 của Bộ Tài chính.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Phương Nam, vào các thời điểm hàng hoá xuất nhập khẩu tăng cao thì việc thực hiện theo quy định chờ hết 90 ngày sau đó ra thông báo tìm chủ hàng và phải chờ thêm 60 ngày nữa mới quyết định hình thức xử lý contanier hàng tồn đọng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến công suất vận hành của cảng.
Do đó, đơn vị khai thác cảng mong muốn có cơ chế hướng dẫn xử lý container tồn cảng linh hoạt hơn, ví dụ như hàng hoá đã quá thời gian lưu cảng thì đơn vị khai thác cảng có quyền di dời đến các cảng khác còn trống hoặc các ICD để phối hợp với hải quan xử lý các bước tiếp theo.Trong trường hợp hãng tàu có hàng quá hạn, hết giá trị sử dụng và có đề nghị xử lý thì cho phép hãng tự thuê công ty xử lý môi trường để tiêu huỷ, vừa xử lý được hàng tồn đọng vừa giảm áp lực lên các đơn vị vận hành, giám sát hoạt động tại cảng.
Tạo đòn bẩy phát triển kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long
Là vùng kinh tế rộng lớn với tổng diện tích 40,4 nghìn km2, Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thế mạnh về phát triển sản xuất nông nghiệp, thu hút đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, trong thời gian dài, hạ tầng giao thông chưa phát triển xứng tầm đang trở thành "điểm nghẽn" khiến các địa phương trong khu vực chưa phát huy hết những lợi thế cạnh tranh của vùng.
Cảng Tân Cảng - Cái Mép Thị Vải, Thị xã Phú Mỹ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Ảnh tư liệu: Huỳnh Sơn/TTXVN
Nhiều tiềm năng nhưng còn điểm nghẽn
Đánh giá về tiềm năng phát triển kinh tế, nhất là với sản xuất nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long, các chuyên gia đã khẳng định, vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện đóng góp khoảng 40% giá trị sản xuất nông nghiệp, trên 54% sản lượng lúa, 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng thủy sản và 70% sản lượng trái cây của cả nước.
Theo đó, hàng năm Đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu khoảng 18 triệu tấn hàng. Tuy nhiên, hiện nay 70% lượng hàng hóa này vẫn phải chuyển tải về các cảng lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh và cảng Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu) khiến chi phí vận tải doanh nghiệp phải gánh cao hơn từ 10 - 40% tùy từng tuyến.
Phân tích về thế mạnh thu hút đầu tư của các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ông Nguyễn Phương Lam - Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ cho rằng, thế mạnh của đồng bằng này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện và vị trí tự nhiên. Diện tích đồng bằng rộng lớn, hệ thống sông rạch dày đặc với hai mặt giáp biển. Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế rất nhiều ở các cụm ngành là: lúa gạo, thủy sản, rau quả, du lịch hoặc cụm ngành công nghiệp năng lượng. Đặc biệt, đây là vùng có nguồn nguyên liệu nông thủy sản "đầu vào" dồi dào, dưới góc độ thu hút đầu tư, là lợi thế rất lớn để phát triển hạ tầng công nghiệp.
Chưa kể, Đồng bằng sông Cửu Long cũng là khu vực có môi trường kinh doanh khá thuận lợi, được cải thiện liên tục qua các năm. Điều này được thể hiện thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của vùng liên tục đứng đầu cả nước so với các vùng khác trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Phương Lam, một trong những thách thức lớn hiện nay đối với Đồng bằng sông Cửu Long chính là kết cấu hạ tầng. Chẳng hạn, cụm ngành logistics của vùng hiện nay đang đứng trước những khó khăn chính như còn hạn chế trong công nghệ đầu tư chuỗi lạnh, hạ tầng cảng biển và cảng sông quy mô còn nhỏ, chất lượng chưa cao. Hạ tầng logistics còn thiếu kết nối, các nhà cung cấp dịch vụ logistics trọn gói còn ít. Hệ thống hạ tầng giao thông vận tải còn hạn chế khiến cho chi phí logistics còn cao, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa từ khu vực này.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, hiện nay 85% lượng hàng xuất khẩu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đều phải qua các cảng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu; 15% còn lại đi bằng đường bộ ra các cửa khẩu khu vực miền Trung, phía Bắc. Chính vì thế, dù tiềm năng cảng biển và dịch vụ logistics Đồng bằng sông Cửu Long rất lớn, nhưng vẫn chưa được phát triển xứng tầm để đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hóa chủ lực của vùng.
Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông
Vừa qua, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã nêu rõ: Tầm nhìn đến năm 2050, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, là nơi đáng sống đối với người dân, là điểm đến hấp dẫn với du khách và nhà đầu tư.
Liên quan đến phát triển kết cấu hạ tầng, quy hoạch đề cập, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đa phương thức, kết nối liên vùng và quốc tế; trong đó chú trọng phát huy thế mạnh của vùng về giao thông thủy nội địa. Đến năm 2030, đầu tư xây dựng mới và nâng cấp khoảng 830 km đường bộ cao tốc, khoảng 4.000 km đường quốc lộ, 4 cảng hàng không, 13 cảng biển, 11 cụm cảng hành khách và 13 cụm cảng hàng hóa đường thủy nội địa. Chẳng hạn, đối với phát triển mạng lưới giao thông đường bộ, đến năm 2030 tầm nhìn đến 2050 tại Đồng bằng sông Cửu Long, đường bộ cao tốc có tổng chiều dài là 1.166 km, bao gồm 3 trục dọc kết nối các tỉnh, thành phố trong vùng với vùng Đông Nam Bộ và 3 trục ngang nhằm tăng cường kết nối với hệ thống cảng biển trong vùng với các cửa khẩu quốc tế.
Đối với đường thủy nội địa, tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa nhằm phát huy lợi thế của vùng, nâng cao thị phần vận tải container. Phát triển 13 cụm cảng hàng hóa đảm bảo tổng công suất hàng hóa thông qua ước tính đạt trên 53 triệu tấn/năm; 11 cụm cảng hành khách đảm bảo tổng năng lực thông qua ước tính đạt 31 triệu lượt hành khách/năm.
Còn hệ thống cảng biển, đến năm 2030 đáp ứng nhu cầu hàng hóa thông qua từ 64 - 80 triệu tấn (hàng container từ 0,6 - 0,8 triệu TEU). Về hàng không, Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc đóng vai trò phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế, Cảng hàng không quốc tế Cần thơ là trung tâm đầu mối phát triển logistics hàng không của vùng.
Từng bước hiện thực hóa các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, vào cuối tháng 3 vừa qua, cây cầu Rạch Miểu 2 đã được khởi công. Đây là cây cầu bắc qua sông Tiền, có quy mô 6 làn xe (gồm 4 làn xe cơ giới, 2 làn xe thô sơ), vận tốc thiết kế 80 km/h, đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng trên tuyến Quốc lộ 60. Công trình, góp phần giảm tình trạng ách tắc, đồng thời tiết kiệm chi phí cho các phương tiện lưu thông với khoảng cách giao thông đường bộ giữa Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau sẽ được rút ngắn.
Trong khi đó, liên quan đến chú trọng đầu tư hoàn thiện hạ tầng giao thông, các tỉnh, thành trong vùng cũng đang đẩy mạnh tiến độ hoàn thành các công trình giao thông trọng điểm, tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế - xã hội.
Theo UBND tỉnh Long An, tỉnh đang tập trung thực thực hiện ba công trình giao thông trọng điểm gồm: công trình hoàn thiện đường vành đai thành phố Tân An, đường ĐT.827E và đường ĐT.830E. Trong số đó, với công trình đường vành đai thành phố Tân An, UBND tỉnh Long An yêu cầu các đơn vị, địa phương liên quan quyết liệt hơn nữa trong giải phóng mặt bằng, giải phóng mặt bằng đến đâu, thi công xây dựng đến đó. Đồng thời, các chủ đầu tư khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ đầu tư phần cầu, đường còn lại để tổ chức lựa chọn nhà thầu ngay trong năm 2022.
Trong giai đoạn 2020 - 2025, cùng với ba công trình giao thông trọng điểm trên, tỉnh Long An cũng thực hiện chương trình đột phá huy động các nguồn lực phát triển hạ tầng giao thông với danh mục 8 công trình, góp phần hoàn chỉnh hệ thống mạng lưới giao thông đường bộ của tỉnh, góp phần đẩy mạnh thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tháng 3, hàng container nhập khẩu qua cảng biển tăng 12% Đại diện Cục Hàng hải Việt Nam vừa thông tin, 3 tháng đầu năm 2022, khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam ước đạt gần 180 triệu tấn. Trong đó, hàng container ước đạt hơn 6,2 triệu TEUs tăng 6% so với cùng kỳ. Tàu cập bến bốc dỡ hàng hóa tại cảng Tân Cảng - Cái Mép (Tổng Công...