Xây dựng thương hiệu cho nông sản: Vẫn chỉ dừng ở kế hoạch
Luôn đứng trong tốp đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, hồ tiêu… nhưng sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới hiện rất khiêm tốn. Cả nước mới chỉ có vài sản phẩm được công nhận dưới dạng đăng ký chỉ dẫn địa lý. Giải quyết điểm yếu này, nhiều năm nay, các bộ, ngành, địa phương đã tập trung xây dựng thương hiệu cho nông sản, tuy nhiên mọi phương án, mục tiêu vẫn chỉ dừng ở kế hoạch.
Xây dựng thương hiệu cho mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam là rất cần thiết.
Vắng bóng nông sản thương hiệu Việt
Theo Bộ NN&PTNT, trong hơn 90.000 thương hiệu hàng hóa các loại được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, thì chỉ có khoảng 15% là của các doanh nghiệp (DN) trong nước, còn lại hơn 80% hàng nông sản của ta bán ra thị trường thế giới phải thông qua các thương hiệu nước ngoài. Ngay tại thị trường trong nước cũng có khoảng 80% sản phẩm nông sản được tiêu thụ mà không có nhãn hiệu.
TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn – Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho rằng: Vì chưa xây dựng được thương hiệu nên nhiều loại nông sản Việt không có sức cạnh tranh trên thị trường lớn và nhanh chóng bị DN nước ngoài thâu tóm, thậm chí điều này còn xảy ra ngay ở trong nước. Đồng quan điểm đó, ông Đoàn Anh Tuân – nguyên Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam chia sẻ: Việt Nam đang xếp thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè, nhưng vì không chú trọng tới xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu nên giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam chỉ đạt 1.698 USD/tấn, bằng một nửa giá chè bình quân của thế giới. Trong khi đó, một số DN của Anh sau khi mua chè của nước ta về tinh chế đã bán ra thị trường với giá 9.800 USD/tấn. Thương hiệu thường chiếm tới 40-60% giá trị sản phẩm.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh cho rằng, không chỉ sản phẩm chè, những sản phẩm chủ lực của Việt Nam như gạo, cà phê, điều… vẫn đang loay hoay bài toán xây dựng thương hiệu. Trên thị trường thế giới, các sản phẩm gắn nhãn “Made in Việt Nam” rất hiếm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó, nguyên nhân chính là sản xuất của ta còn manh mún, DN kinh doanh xuất khẩu nông sản vẫn mang tính “chộp giật”, chưa có chiến lược dài hơi.
Video đang HOT
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Nhiều ý kiến cho rằng, việc xây dựng thương hiệu nông sản quốc gia không chỉ dừng lại ở quyền lợi của DN hay nông dân, mà đây còn là quyền lợi và lợi ích của quốc gia. Thực tế, nông nghiệp hằng năm vẫn đóng góp GDP rất lớn cho nền kinh tế nước nhà, đặc biệt, tỷ lệ người dân Việt Nam sống phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp còn rất cao. Do đó, Nhà nước cần giữ vai trò đầu tàu và có những chiến lược, chính sách hỗ trợ cùng DN xây dựng thương hiệu nông sản quốc gia.
Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam Nguyễn Minh Châu cho rằng: Tồn tại lớn nhất của xuất khẩu nông sản của nước ta là xuất thô quá nhiều, làm giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Ví dụ như cà phê, gạo, mặc dù đứng nhất nhì thế giới nhưng các sản phẩm này vẫn bị các nước khác thâu tóm về giá và thường bị động trong giao dịch. “Chúng ta vẫn luôn nói về việc cần thiết phải xây dựng thương hiệu cho các nông sản, nhưng có bàn bạc mà không có thay đổi. Do đó, các DN cần liên kết để tạo thế chủ động và xây dựng cho mình một thương hiệu đủ mạnh, bền vững, trong đó sự hỗ trợ của Nhà nước có vai trò quan trọng” – ông Châu nói.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho biết: Hiện Nhà nước đã xây dựng được hành lang pháp lý và có những biện pháp hữu hiệu nhằm hỗ trợ các địa phương khẳng định thương hiệu quốc gia cho các sản phẩm đặc sản trong nước. Trong đó, gần đây nhất, sẽ sớm hoàn thiện xây dựng lôgô và thương hiệu cho gạo Việt Nam. Tuy nhiên, theo ông Đỗ Kim Lang, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương): Hiện nhiều DN cũng như người sản xuất chưa hiểu được giá trị của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng như xây dựng thương hiệu nông sản nên chưa tích cực hợp tác. Đặc biệt, để xây dựng được thương hiệu cần liên kết các DN với người sản xuất, hình thành chuỗi sản phẩm khép kín, có giá trị cao, đủ tiêu chuẩn để cạnh tranh về chất lượng.
Ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Lộc Trời, An Giang cho rằng, việc có lôgô – thương hiệu gạo quốc gia hay bất cứ nông sản nào không khó, cái khó là phải có những sản phẩm chất lượng để gắn liền với thương hiệu đó. “Muốn vậy thì phải có giống chủ lực, vùng sản xuất chuyên canh, chất lượng sản phẩm đạt các tiêu chuẩn quốc gia mới cho hiệu quả” – ông Thòn nhấn mạnh.
Theo_Hà Nội Mới
Gạo Việt nhưng phải dùng bao bì nước ngoài để bán trong siêu thị?
Hiện chưa có thương hiệu gạo mang tên Việt Nam vì gạo Việt Nam chủ yếu đóng bao và mang nhãn hàng của doanh nghiệp hay quốc gia nhập khẩu.
Tại Diễn đàn chính sách nông nghiệp thường niên 2015, TS.Đào Thế Anh (Phó Viện trưởng Viện Cây lương thực - Cây thực phẩm) nêu thực trạng đáng buồn cho hạt gạo Việt. Đó là, Việt Nam xuất khẩu gạo tới trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng hiện vẫn chưa có thương hiệu gạo mang tên Việt Nam. Gạo Việt Nam chủ yếu đóng bao và mang nhãn hàng của doanh nghiệp hay quốc gia nhập khẩu. Thậm chí, ngay tại thị trường trong nước, gạo Việt Nam bị đánh giá thấp hơn gạo nhập khẩu từ Thái Lan, Camphuchia, Đài loan, Nhật Bản...
Nông dân Việt Nam làm ra nhiều lúa gạo nhưng lợi nhuận thu được chưa nhiều (Ảnh minh họa: KT)
Thực tế này dẫn đến hiện tượng "gạo sản xuất ở Việt Nam nhưng sử dụng bao bì nước ngoài bán trong các siêu thị. Rất ít thương hiệu gạo Việt Nam được người tiêu dùng biết đến. Thị trường gạo xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là Trung Quốc (35% thị phần trong 8 tháng đầu năm 2015) luôn chứa đựng nhiều bất ổn và không dự báo được".
Gạo Việt yếu trong chuỗi giá trị toàn cầu
TS. Đào Thế Anh chỉ ra rằng, trong khi Thái Lan, Myanmar và Campuchia đã ký được hợp đồng cấp Chính phủ (G2G) nên tiêu thụ dễ hơn, còn Việt Nam tiếp tục giao thương qua dạng tiểu ngạch. Gạo Việt Nam cũng kém cạnh tranh về giá so với nhiều nước. Năm 2014, Việt Nam xuất khẩu gạo thơm nhiều nhất (800.000 tấn) với giá trung bình 600 USD/tấn, trong khi giá gạo Hom Mali của Thái Lan 1.065- 1.075 USD/tấn và Basmati của Ấn Độ 1.515-1.525 USD/tấn.
Những con số này cho thấy rõ rằng, mức độ tham gia của gạo Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu yếu, chủ yếu ở phân khúc trung bình và thấp, gạo chất lượng cao chiếm tỷ trọng thấp... Sản xuất gạo chưa theo kịp nhu cầu ngày càng đa dạng về chất lượng của thị trường nhập khẩu, giá luôn thấp so với các nước xuất khẩu chủ chốt...
Một trong những nguyên nhân quan trọng, theo TS. Đào Thế Anh, mặc dù Việt Nam có nhiều giống lúa bản địa có chất lượng cao, nhưng gạo Việt Nam không được sản xuất theo quy trình hữu cơ, thân thiện với môi trường như Campuchia, hay sử dụng giống bản địa có hỗ trợ của thương hiệu quốc gia như Thái lan, hay thương hiệu Basmati đã có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới của Ấn độ...
Vì vậy, "để thương hiệu gạo Quốc gia có hiệu quả cần có nghiên cứu một cách nghiêm túc về sở thích tiêu dùng của thị trường gạo thế giới và trong nước. Thương hiệu gạo Việt Nam phải bắt đầu từ thị trường, từ nhu cầu người tiêu dùng, từ các yếu tố tác động đến hoạt động sản xuất và thương mại, từ tình hình cạnh tranh".
Tuy nhiên, TS. Đào Thế Anh cũng lưu ý, "việc cung cấp một nhóm sản phẩm gạo chính chung dưới thương hiệu Quốc gia cho tất cả thị trường sẽ không phù hợp trong môi trường hội nhập sâu rộng hiện nay". Bởi vì việc cung cấp một nhóm sản phẩm gạo chính chung dưới thương hiệu Quốc gia cho tất cả thị trường sẽ không phù hợp trong môi trường hội nhập sâu rộng hiện nay.
Sản xuất phải từ nhu cầu thị trường
Quan điểm của TS. Đào Thế Anh là nước ta cần xác định nhu cầu của từng phân khúc thị trường, vị trí cạnh tranh của gạo Việt Nam so với từng đối thủ để từ đó có thể vạch ra chiến lược thích hợp (cạnh tranh giá, cạnh tranh chất lượng, thị trường mục tiêu...). Trên cơ sở nắm vững nhu cầu và tâm lý tiêu dùng của từng phân khúc thị trường, chiến lược của đối thủ cạnh tranh để định vị thương hiệu cho gạo Việt Nam, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Nghiên cứu thị trường còn là cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn chất lượng cho gạo Việt Nam theo từng phân khúc, từng thị trường.
Hiện tại, hệ thống tiêu chuẩn gạo Việt Nam đã quá lỗi thời và không đáp ứng được các thay đổi trên thị trường thế giới. Dẫn kinh nghiệm của Pakistan, TS. Anh cho hay, họ xây dựng tiêu chuẩn chi tiết cho tất cả các loại sản phẩm gạo của họ có thể sản xuất, thậm chí thích ứng với từng nước nhập khẩu, tất cả đều được công khai trên trang web.
Do đó, việc Việt Nam xây dựng được thương hiệu quốc gia cho gạo của mình sẽ nhằm giúp gạo Việt xuất khẩu với giá trị cao và có chỗ đứng vững vàng ở thị trường thế giới nhưng nó không làm thay vai trò của thương hiệu vùng như Chỉ dẫn địa lý hay của doanh nghiệp, HTX. Thương hiệu Gạo Việt Nam góp phần tăng sự nổi tiếng, hỗ trợ cho các thương hiệu của doanh nghiệp, của vùng thâm nhập thị trường thế giới, như kinh nghiệm của Thái lan.
"Có lẽ bản sắc của thương hiệu gạo Quốc gia Việt Nam phải dựa trên tập hợp phong phú và đa dạng về chất lượng của các sản phẩm gạo bản địa kèm theo một hệ thống kiểm soát chất lượng tốt từ trung ương đến địa phương và dọc theo chuỗi giá trị. Đây là điều mà Thái lan và Campuchia chưa có được"- TS. Anh khuyến nghị./.
Theo_VOV
Sẽ sớm có logo thương hiệu cho gạo Việt Nam Ưu tiên số một được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực hiện trong kế hoạch xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam là xây dựng logo thương hiệu cho hạt gạo. Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN) Dù là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới nhưng thực tế là hạt gạo nước ta...