WWF: Hành tinh chúng ta đang phát tín hiệu đỏ
Hành tinh chúng ta đang phát tín hiệu đỏ, cảnh báo lỗi hệ thống. Từ các loài cá ở đại dương và sông ngòi đến loài ong vốn có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, sự suy giảm ở động vật hoang dã ảnh hưởng trực tiếp đến dinh dưỡng, an ninh lương thực và sinh kế của hàng tỷ người’, Tổng giám đốc Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF) cảnh báo khi công bố Báo cáo Sức sống hành tinh 2020 ngày 10-9.
Hành tinh chúng ta đang phát tín hiệu đỏ, cảnh báo lỗi hệ thống. Từ các loài cá ở đại dương và sông ngòi đến loài ong vốn có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, sự suy giảm ở động vật hoang dã ảnh hưởng trực tiếp đến dinh dưỡng, an ninh lương thực và sinh kế của hàng tỷ người”, Tổng giám đốc Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF) cảnh báo khi công bố Báo cáo Sức sống hành tinh 2020 ngày 10-9.
2/3 quần thể động vật hoang dã bị suy giảm từ năm 1970 đến nay
Theo Báo cáo Sức sống hành tinh 2020 được Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới công bố hôm nay, trong vòng chưa tới nửa thế kỷ, hai phần ba quần thể động vật có vú, chim, lưỡng cư, bò sát và cá trên toàn cầu đã giảm, phần lớn là do môi trường bị phá hủy. Đây cũng là nguyên nhân góp phần lây lan các dịch bệnh liên quan đến động vật, như Covid-19.
Báo cáo sử dụng dữ liệu 20.811 quần thể của 4.392 loài, các chỉ số Sức sống hành tinh 2020 cho thấy trung bình giảm 68% quần thể các loài được theo dõi. Tỷ lệ thay đổi trong chỉ số này phản ánh bình quân sự thay đổi của kích cỡ quần thể của các loài được theo dõi trong 46 năm. Tỷ lệ này không phải là số lượng cá thể động vật bị mất.
Báo cáo Sức sống hành tinh 2020 là ấn bản thứ mười ba của chuỗi báo cáo Sức sống hành tinh, được WWF xuất bản hai năm một lần.
Chỉ số Sức sống hành tinh (LPI) do Hiệp hội Động vật học London (ZSL) tính toán đã cho thấy các yếu tố khiến các đại dịch dễ bùng phát trên trái đất cũng chính là tác nhân thúc đẩy mức suy giảm trung bình 68% quần thể các loài có xương sống trên toàn cầu từ năm 1970 tới 2016. Những yếu tố này gồm có sự thay đổi trong sử dụng đất và buôn bán động vật hoang dã.
Ông Marco Lambertini, Tổng giám đốc WWF quốc tế chia sẻ: “Báo cáo Sức sống hành tinh 2020 đã nhấn mạnh sự phá hủy thiên nhiên ngày càng tăng của chúng ta đang không chỉ hủy diệt động vật hoang dã mà cả sức khỏe con người cũng như tất cả các khía cạnh của cuộc sống của chúng ta”.
“Chúng ta không thể bỏ qua các bằng chứng về chỉ số suy giảm nghiêm trọng quần thể các loài động vật hoang dã. Đây là chỉ số cảnh báo môi trường thiên nhiên và là môi trường sống của chúng ta đang bị dọa nghiêm trọng. Hành tinh chúng ta đang phát tín hiệu đỏ, cảnh báo lỗi hệ thống. Từ các loài cá ở đại dương và sông ngòi đến loài ong vốn có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, sự suy giảm ở động vật hoang dã ảnh hưởng trực tiếp đến dinh dưỡng, an ninh lương thực và sinh kế của hàng tỷ người”, Tổng giám đốc WWF cảnh báo.
Ông nói thêm: “Trong bối cảnh đại dịch toàn cầu, hơn bao giờ hết, các quốc gia cần phải phối hợp và hành động để cùng chặn đứng và đảo ngược xu hướng mất đa dạng sinh học và quần thể các loài hoang dã vào cuối thập kỷ này. Sự sống còn của chúng ta ngày càng phụ thuộc vào việc này”.
Các quần thể còn tiếp tục giảm và đi đến tuyệt chủng
Số lượng của các loài động vật có vú, chim, cá, lưỡng cư và bò sát đã giảm trung bình đáng báo động 68% kể từ năm 1970 đến nay.
Báo cáo Sức sống Hành tinh 2020 giới thiệu một cách tổng quan, toàn diện về hiện trạng của thế giới tự nhiên, thông qua các chỉ số LPI – theo dõi xu hướng về sự phong phú của động vật hoang dã trên toàn cầu. Báo cáo có sự đóng góp của hơn 125 chuyên gia trên khắp thế giới. Nó cho thấy các nguyên nhân chính khiến quần thể các loài trên cạn, được theo dõi trong chỉ số LPI, bị giảm là do mất và suy giảm môi trường sống, trong đó có phá rừng. Cách chúng ta sản xuất thực phẩm không bền vững cũng thúc đẩy sự suy giảm này.
Video đang HOT
Hai loài nguy cấp trong chỉ số LPI được báo cáo miêu tả nổi bật là loài đười ươi ở vùng đất thấp miền Đông Congo và loài vẹt xám châu Phi ở Tây Nam Ghana. Số lượng của loài đười ươi trong vườn quốc gia Kahuzi-Biega thuộc Cộng hòa Dân chủ Congo được ước tính giảm khoảng 87% từ năm 1994 đến 2015, chủ yếu là do săn bắn bất hợp pháp. Loài vẹt xám châu Phi ở Tây Nam của Ghana giảm 99% từ 1992 đến 2014 do bị bẫy bắt để bán và bị mất môi trường sống.
Báo cáo theo dõi chỉ số LPI của gần 21.000 quần thể của hơn 4.000 loài động vật có xương sống từ năm 1970 năm 2016. Nó cũng cho thấy quần thể động vật hoang dã ở môi trường nước ngọt bị suy giảm 84%. Đây là sự suy giảm dân số trung bình mạnh nhất trong các hệ sinh thái, tương đương với giảm 4% /năm kể từ năm 1970. Một ví dụ tiêu biểu là số lượng sinh sản của cá tầm Trung Quốc trên sông Dương Tử đã giảm 94% kể từ 1982 tới 2015 do dòng chảy của sông bị các con đập thủy điện chia cắt.
Theo Tiến sĩ Andrew Terry, Giám đốc Chương trình Bảo tồn của ZSL: “Chỉ số Sức sống hành tinh là một trong những chỉ số đa dạng sinh học toàn cầu toàn diện nhất. Giảm trung bình 68% trong 50 năm thực sự là một thảm họa, và là bằng chứng rõ ràng về tác động mà con người đang gây ra cho thế giới tự nhiên. Nếu không thay đổi, chắc chắn các quần thể còn tiếp tục giảm và đi đến tuyệt chủng, đe dọa tính vẹn toàn của các hệ sinh thái đang nuôi dưỡng tất cả chúng ta. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng biết rằng các nỗ lực bảo tồn có hiệu quả và các loài có thể quay lại từ bờ vực tuyệt chủng. Với cam kết, đầu tư và chuyên môn, ta có thể đảo ngược xu hướng đó”.
Hành động khẩn cấp để đảo ngược xu hướng
Báo cáo cho thấy hoạt động của con người đã thúc đẩy sự suy giảm các loài sinh vật.
Báo cáo Sức sống hành tinh 2020 còn đưa ra mô hình dự báo cho thấy rằng, nếu không tiếp tục ngăn cản việc suy thoái và mất môi trường sống, đa dạng sinh học toàn cầu sẽ tiếp tục giảm.
Mô hình này được dựa trên bài nghiên cứu “Cần một chiến lược tích hợp để đảo ngược xu hướng đi xuống trong đa dạng sinh học trên cạn” do WWF và hơn 40 tổ chức phi chính phủ, các tổ chức học thuật và nghiên cứu công bố trên tạp chí Tự nhiên ngày 10-9.
Nó chỉ ra rằng, chỉ có thể ổn định và đảo ngược sự mất mát của thiên nhiên do con người gây ra nếu có các nỗ lực bảo tồn tham vọng và có sự cải tổ trong cách sản xuất và tiêu thụ thực phẩm. Các thay đổi mà chúng ta cần là sản xuất thực phẩm và thương mại một cách hiệu quả và bền vững, giảm rác thải, và cổ vũ cho một chế độ ăn uống lành mạnh, thân thiện hơn với môi trường.
Nghiên cứu cho thấy rằng việc thực hiện tổng hợp các biện pháp, thay vì đơn lẻ, sẽ giúp giảm nhanh các áp lực lên môi trường sống của các loài hoang dã. Với cách này, ta có thể đảo ngược xu hướng suy giảm đa dạng sinh học do mất môi trường sống sớm hơn vài thập kỷ, so với kịch bản phá hủy môi trường sống rồi cố gắng để đảo ngược tình thế. Các mô hình cũng chỉ ra rằng nếu thế giới “tiếp tục như hiện tại”, tỷ lệ mất đa dạng sinh học từ năm 1970 sẽ tiếp tục trong những năm tới.
“Theo kịch bản tốt nhất, sẽ mất nhiều thập kỷ để đảo ngược những thiệt hại trên. Nhiều khả năng sẽ không thể phục hồi các đa dạng sinh học đã bị mất, gây rủi ro cho vô số các dịch vụ sinh thái mà con người phụ thuộc vào”, ông David Leclère, nghiên cứu viên của Viện Phân tích Hệ thống ứng dụng quốc tế và tác giả chính của nghiên cứu này nhận định.
Báo cáo Sức sống hành tinh 2020 được công bố một tuần trước phiên họp thứ 75 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, xem xét các tiến bộ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, Hiệp định Paris và Công ước về đa dạng sinh học (CBD). Phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc 2020 sẽ đưa các nhà lãnh đạo thế giới, các doanh nghiệp và xã hội dân sự cùng thảo luận, nhằm phát triển Khung Hành động hậu 2020 cho đa dạng sinh học toàn cầu. Đây là mốc quan trọng để tạo dựng nền tảng cho một thỏa thuận rất cấp bách: Thỏa thuận mới vì Thiên nhiên và con người.
Ông Lambertini nói: “Các mô hình dự báo trong nghiên cứu Đảo ngược xu hướng cho ta các bằng chứng vô cùng giá trị. Nếu ta còn mong khôi phục lại thiên nhiên, để các thế hệ hiện tại và tương lai được hưởng những gì họ cần từ thiên nhiên, thì ngoài những nỗ lực bảo tồn, các nhà lãnh đạo thế giới phải làm cho hệ thống sản xuất và tiêu thụ thực phẩm bền vững hơn và không gây phá rừng trong toàn bộ chuỗi cung ứng – nguyên nhân chính làm suy giảm động vật hoang dã.
“Nhân cơ hội các nhà lãnh đạo cùng tập hợp cho kỳ họp trực tuyến của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong vài ngày tới, nghiên cứu này có thể giúp chúng ta tiến tới một Thỏa thuận mới vì Thiên nhiên và con người. Đây là chìa khóa để các quần thể động vật hoang dã, thực vật, côn trùng và toàn bộ thiên nhiên, bao gồm cả loài người cùng tồn tại lâu bền. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần một Thỏa thuận mới như vậy”, ông Lambertini khẳng định.
Điều gì xảy ra nếu người ngoài hành tinh đến Trái Đất
Giả định rằng có một ngày người ngoài hành tinh sẽ đến Trái Đất, câu hỏi lúc đó sẽ là: Làm sao ta nói chuyện được với họ? Họ sẽ nói loại ngôn ngữ nào?
Tôi hỏi tiến sĩ Shostak điều gì sẽ xảy ra nếu người ngoài hành tinh đến Trái Đất. Liệu tổng thống Mỹ có triệu tập họp khẩn Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân? Liệu Liên Hợp Quốc có soạn thảo tuyên bố chào mừng các vị khách? Cuộc tiếp xúc đầu tiên sẽ tuân theo nghi thức nào?
Câu trả lời của ông khiến tôi khá bất ngờ: về cơ bản, sẽ chẳng có nghi thức nào cả. Các nhà khoa học từng có hội thảo bàn về vấn đề này, nhưng họ chỉ có những đề xuất không mang sức nặng đáng kể. Không một chính phủ nào coi đây là vấn đề nghiêm túc.
Cuộc tiếp xúc đầu tiên
Dù sao đi nữa, cuộc tiếp xúc đầu tiên có lẽ chỉ là đối thoại một chiều, khi máy dò tìm trên Trái Đất phát hiện một thông điệp lạc đến từ hành tinh xa. Nhưng điều đó không có nghĩa ta có thể thiết lập đối thoại cùng họ.
Một tín hiệu như vậy có thể xuất phát từ một hệ cách Trái Đất 50 năm ánh sáng chẳng hạn, vậy sẽ mất 100 năm để một thông điệp được gửi đến ngôi sao đó và lời phản hồi quay về Trái Đất. Như vậy, việc giao tiếp với sinh vật ngoài hành tinh là cực kỳ khó khăn.
Giả định rằng có một ngày người ngoài hành tinh sẽ đến Trái Đất, câu hỏi lúc đó sẽ là: Làm sao ta nói chuyện được với họ? Họ sẽ nói loại ngôn ngữ nào?
Trong phim Arrival (Cuộc đổ bộ bí ẩn), người ngoài hành tinh đưa nhiều tàu khổng lồ bay lượn đầy đe dọa trên bầu trời nhiều quốc gia. Khi người Trái Đất bước vào trong tàu, họ bắt gặp những sinh vật lạ trông giống những con mực khổng lồ. Việc cố gắng tương tác với chúng rất khó khăn, do chúng giao tiếp bằng cách viết lên màn hình những ký tự lạ mà các nhà ngôn ngữ phải vắt óc giải mã.
Khủng hoảng xảy ra khi người ngoài hành tinh viết một chữ có thể dịch sang hai nghĩa là "công cụ" và "vũ khí". Bối rối trước sự nhập nhằng này, các vũ khí hạt nhân được đặt trong tình trạng báo động cao nhất. Có vẻ chiến tranh liên hành tinh sắp sửa nổ ra, tất cả chỉ vì một hiểu lầm về ngôn ngữ.
Trên thực tế, có lẽ bất kỳ loài sinh vật nào đủ tiến bộ để gửi tàu đến Trái Đất đều hẳn đã theo dõi tín hiệu truyền hình và truyền thanh của ta, đồng thời giải mà trước ngôn ngữ địa cầu, nên họ sẽ không cần phụ thuộc vào các nhà ngôn ngữ trên Trái Đất. Nhưng dù sao, sẽ không hề khôn ngoan nếu khơi mào một cuộc chiến tranh liên hành tinh với những sinh vật tiến bộ hơn chúng ta hàng thiên niên kỷ.
Sẽ ra sao nếu người ngoài hành tinh có hệ quy chiếu ngôn ngữ hoàn toàn khác chúng ta?
Nếu họ tiến hóa từ loài chó thông minh thì có lẽ ngôn ngữ họ dùng sẽ dựa trên mùi vị, thay vì hình ảnh thị giác. Nếu tiến hóa từ chim thông minh, ngôn ngữ của họ sẽ dựa trên những điệu hót phức tạp. Nếu tiến hóa từ dơi hay cá heo, họ sẽ dùng tín hiệu siêu âm. Nếu tiến hóa từ côn trùng, có thể họ sẽ dùng pheromone để gửi tín hiệu cho nhau.
Khi phân tích não động vật, ta thấy chúng rất khác não người. Một phần lớn não người phục vụ thị giác và ngôn ngữ, còn não động vật phục vụ khứu giác và thính giác nhiều hơn.
Nói cách khác, khi lần đầu gặp gỡ một nền văn minh ngoài hành tinh, ta không thể mặc định họ sẽ suy nghĩ và giao tiếp giống ta.
Trông họ sẽ ra sao?
Trong các phim khoa học viễn tưởng, cao trào thường là lúc cuối cùng ta cũng được nhìn thấy người ngoài hành tinh. Thật ra, Contact (Sự thật che giấu) sẽ là bộ phim rất hay nếu không có một điểm đáng thất vọng là sau những diễn biến dồn dập, chúng ta lại không được nhìn thấy hình dạng thật của sinh vật ngoài hành tinh.
Nhưng trong loạt phim Star Trek, tất cả người ngoài hành tinh đều trông giống hệt con người và nói chuyện bằng tiếng Anh giọng Mỹ chuẩn. Họ chỉ khác con người duy nhất ở cái mũi. Hình ảnh người vũ trụ trong Star Wars thì sáng tạo hơn, giống thú hoang hoặc cá, nhưng họ đều đến từ hành tinh có không khí và trọng lực tương tự Trái Đất.
Cảnh trong phim Star Wars.
Thoạt tiên, ta sẽ nghĩ người ngoài hành tinh có thể mang bất kỳ hình dạng nào, vì ta cũng chưa từng gặp gỡ họ. Nhưng có một logic mà có lẽ họ cũng phải tuân theo. Tuy chưa thể khẳng định hoàn toàn, nhưng rất có khả năng sự sống ngoài vũ trụ bắt đầu từ dưới biển và cấu thành từ phân tử gốc cacbon. Cacbon đáp ứng hai tiêu chí tối quan trong cho sự sống: khả năng lưu trữ lượng thông tin lớn, do có cấu trúc phân tử phức tạp; và khả năng tự nhân bản.
Ngoại sinh học là một nhánh khoa học mới ra đời gần đây, tập trung nghiên cứu sự sống tại những thế giới xa xôi, với hệ sinh thái khác hẳn Trái Đất. Đến nay, các nhà ngoại sinh học chưa tìm thấy con đường tạo ra sự sống nào khác ngoài cacbon - con đường đã cho chúng ta những phân tử đa dạng và phong phú.
Nhiều dạng sống khác cũng được xem xét đến, như sinh vật thông minh trông giống bóng bay trôi nổi trong khí quyển các hành tinh khí khổng lồ, nhưng rất khó tạo ra các chất hóa học để hình thành nên chúng.
Hồi nhỏ, tôi rất thích Forbidden Planet, bộ phim này đã dạy tôi một bài học khoa học giá trị. Ở một hành tinh xa, các phi hành gia bị một quái vật khổng lồ đe dọa và giết hại. Một nhà khoa học đặt khuôn thạch cao vào dấu chân con quái vật để lại trên mặt đất. Ông choáng váng trước những gì mình tìm được, tuyên bố rằng bàn chân con quái vật không tuân theo bất kỳ định luật tiến hóa nào. Móng vuốt, ngón chân, xương bàn chân của nó đều có cách sắp xếp rất quái lạ.
Chi tiết trên khiến tôi chú ý. Quái vật vi phạm định luật tiến hóa ư? Ý tưởng cho rằng ngay cả quái vật và người ngoài hành tinh cũng phải tuân theo các định luật khoa học nghe thật mới mẻ với tôi. Trước đó, tôi nghĩ quái vật chỉ cần hung dữ và xấu xí là được. Nhưng rồi tôi thấy ý tưởng quái vật và người ngoài hành tinh phải tuân theo những quy luật tự nhiên giống chúng ta thật sự hợp lý. Họ không hề sống giữa chân không.
Chẳng hạn, khi nghe chuyện về quái vật hồ Loch Ness, tôi lại tự hỏi có bao nhiêu con như thế? Nếu một con quái giống như khủng long có thể tồn tại trong hồ, thì hẳn nó phải là một phần trong quần thể sinh sản khoảng 50 con. Nếu thế, bằng chứng về chúng (xương, xác con mồi, chất thải, v.v.) hẳn đã phải được tìm thấy. Nhưng việc chẳng có bằng chứng nào được tìm ra khiến ta phải nghi ngờ về sự tồn tại của loài sinh vật này.
Tương tự, định luật tiến hóa cũng có thể áp dụng cho sinh vật ngoài hành tinh. Chúng ta không thể mô tả chính xác nền văn minh của họ khởi phát ra sao từ một hành tinh xa xôi. Tuy vậy, ta có thể suy luận dựa trên sự tiến hóa của chính loài người. Khi phân tích quá trình Homo Sapien (người tinh khôn) phát triển trí tuệ, ta thấy có ít nhất ba nhân tố quan trọng giúp nhân loại vươn lên từ bùn đen. Đó là mắt có khả năng nhìn nổi; ngón cái tách biệt hoặc có bộ phận cầm nắm; và ngôn ngữ.
Nếu sự tiến hóa của loài có trí tuệ cần ít nhất ba nhân tố như vừa giới thiệu thì ta có thể đặt câu hỏi: Có bao nhiêu loài động vật trên Trái Đất sở hữu cả ba nhân tố đó? Ta có thể thấy nhiều loài săn mồi có mắt nhìn nổi, có càng, móng vuốt, răng nanh hoặc xúc tu nhưng không có khả năng cầm nắm công cụ. Tương tự, không loài nào có ngôn ngữ đủ phức tạp để cho phép chúng săn mồi, chia sẻ thông tin với nhau, cũng như truyền thông tin sang thế hệ sau.
Với nền tảng thông tin trên, ta có thể phân tích các sinh vật ngoài hành tinh trong tiểu thuyết Star Maker của Olaf Stapledon. Nhân vật chính trong truyện có chuyến hành trình tưởng tượng vào vũ trụ, gặp gỡ rất nhiều nền văn minh kỳ thú. Vậy là chúng ta được thấy một bức tranh toàn cảnh về các dạng sống trí tuệ có thể tồn tại trải dài trên tấm toan nền là Dải Ngân Hà.
Thằn lằn phát triển "ngôn ngữ tình yêu" mới chỉ sau bốn thế hệ Khi không phải sống trong mối nguy hiểm bị săn mồi và có ý định thu hút bạn tình tiềm năng, các con thằn lằn đực tạo ra "một lời mời gọi" hóa học mới. Một con thằn lằn Podacis erhardii ở vùng Aegea Các nghiên cứu về sự tiến hóa trong tín hiệu của động vật thường tập trung vào các tín...