Vượt núi băng đèo thăm ngục Đắk Glei trên nóc nhà Tây Nguyên
Từ đường Hồ Chí Minh đoạn đèo Lò Xo uốn lượn quanh co, du khách theo lối vào Ngục Đắk Glei phải qua các đỉnh núi cao của dãy Ngọc Linh – nóc nhà Tây Nguyên.
Cai ngục trấn áp, đòn roi đối với các chiến sĩ cách mạng tại Ngục Đắk Glei. Ảnh: Thanh Tuấn
Hiện nay, cung đường kéo dài hơn 30km vào di tích ngục Đắk Glei đã được chính quyền địa phương đầu tư hạ tầng đồng bộ, giao thông êm thuận. Tuy nhiên, cung đèo hiểm trở, quanh co, đường nhỏ hẹp trên dãy núi được mệnh danh là nốc nhà miền Trung vẫn đầy thử thách.
Ngục Đắk Glei thuộc xã Đắk Choong, huyện Đắk Glei, tỉnh Kon Tum. Cụm di tích lịch sử Ngục Đắk Glei gồm ba công trình nhỏ: Khu đồn canh gác, khu Căng an trí và khu nhà Ngục.
Nhà biệt giam tại nơi hoang vu, hẻo lánh giữa núi rừng Tây Nguyên. Ảnh: Thanh Tuấn
Toàn bộ khu Ngục Đắk Glei nằm trên đồi, xung quanh núi cao, suối, thung lũng bao bọc. Xa xa là những bản làng người Xơ Đăng cùng cánh đồng lúa chín vàng rực kỳ thu hoạch. Khung cảnh yên bình, kỳ vỹ nhưng cũng hoang vu, lạnh lẽo giữa nơi thâm sơn cùng cốc, thưa vắng dấu chân người qua lại.
Ngục Đắk Glei được xây dựng năm 1932, nơi thực dân Pháp giam giữ các chiến sĩ cộng sản cách mạng với án tù chung thân trong phong trào cách mạng 1930 -1931 và 1936 -1939. Với âm mưu kiểm soát toàn bộ Tây Nguyên, năm 1921 thực dân Pháp mở đường 14 từ Kon Tum lên Đắk Tô – Đắk Pét – Đắk Glei, nhằm cách ly những nhà hoạt động cách mạng có tầm ảnh hưởng lớn trong dân chúng.
Video đang HOT
Mô phỏng cảnh người tù bị lao động khổ sai. Ảnh: Thanh Tuấn
Ngục Đắk Glei từng giam giữ các chiến sĩ, thi sĩ cách mạng nổi tiếng như nhà thơ: Tố Hữu, Nguyễn Duy Trinh, Chu Huy Mân, Huỳnh Ngọc Huệ… Ngục Đắk Glei trở thành biểu tượng của cách mạng về lòng yêu nước, sức sống mãnh liệt của đất và con người Kon Tum.
Một góc Ngục Đắk Glei trên đỉnh Ngọc Linh. Di tích ngục Đăk Glei được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia theo quyết định số 2307/QĐ-BT vào ngày 30.12.1991. Ảnh: Thanh Tuấn
Hàng năm, nhiều đoàn du khách thập phương, các cựu chiến binh vẫn thường đến tham quan Ngục Đắk Glei để chứng kiến, cảm nhận không khí sôi sục thời đấu tranh đòi độc lập, tự do cho đất nước. Hành trình tham quan cho du khách phần nào cảm nhận được sự giam cầm khắc nghiệt, tàn bạo của chế độ thực dân đối với người chiến sĩ cách mạng kiên trung.
Bản làng dưới chân núi. Ảnh: Thanh Tuấn
Ngục Đắk Glei từng nổi tiếng với câu thơ trong bài “Tiếng hát đi đày” của nhà thơ Tố Hữu, đã trở thành biểu tượng, hình ảnh đấu tranh của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc để truyền đạt, giáo dục cho thế hệ trẻ.
“Đường lên đỉnh núi Đắk Glei
Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim
Gà đâu gáy động im lìm
Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây”…
Huyền thoại Drai Kpơr, Đắk Lắk
Drai Kpơr là dòng thác đẹp gắn bó với đời sống tinh thần của người Ê ê Drao ở Ea Kar, Đắk Lắk.
Đây cũng là vùng căn cứ cách mạng một thời ở Tây Nguyên. Miền đất Tây Nguyên không chỉ nổi tiếng với hương vị cà-phê, những cánh rừng nguyên sơ chứa đầy bí ẩn, mà nó còn gắn liền với những chiến tích lẫy lừng trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Và chính từ những cánh rừng đại ngàn ấy đã âm thầm làm nên nhiều huyền thoại xưa và nay.
Cách trung tâm huyện lỵ Ea Kar khoảng 33 km, xuôi theo quốc lộ 26 hướng về các tỉnh duyên hải miền trung, tôi rẽ phải theo hướng đông-nam đến với xã Cư Bông. Với địa hình núi cao, rừng sâu nằm trong biên độ của dãy nam Trường Sơn hùng vĩ, tiếp giáp tỉnh Lâm ồng nên khí hậu ở đây rất lý tưởng. Cái tên gọi Buôn Trưng (tiếng Ê ê gọi MTrưng) gợi cho tôi nhiều sự tò mò, không phải vì ngôn ngữ mà là vì một huyền thoại - huyền thoại Drai Kpơr!
Bắt đầu từ dãy Cư Yang (được mệnh danh là Núi Thần) với độ cao 769 m, dòng Ea Kpăm hòa cùng dòng Ea Kpơr khởi nguồn từ dẫy Cư Kdroa có độ cao 700m; rồi từ độ cao 550 m hào phóng đổ vào thung lũng Buôn Trưng, trước khi hòa chung cùng sông Krông Pác.
Sự kỳ vĩ từ ngọn nguồn của những dòng chảy đã tạo thành chuỗi bốn ngọn thác nối tiếp, để rồi tô vẽ lên một hình hài Dray Kpơr vừa hoang sơ mãnh liệt, vừa tiềm ẩn vẻ đẹp kỳ bí.
Theo tiếng Ê ê, Drai có nghĩa là thác, Kpơr là linh hồn. Như vậy, thác Drai Kpơr được hiểu là thác "linh hồn". Drai Kpơr từ lâu đã gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người Ê ê Drao vùng Cư Yang trong sự tôn kính đặc biệt. Theo tín ngưỡng thì đó chính là nơi Yàng (Thần) ngự để ban phát, che chở cuộc sống ấm no.
Dòng Drai Kpơr làm duyên làm dáng trên mặt bằng trải dài hơn 100m, vươn rộng khoảng 50 m nước trước sự lẫm liệt của núi với độ cao 550 m, rồi đột ngột đổ xuống như một trò ú tim, tạo ra thác nước cao đến 30 m trong sự ngỡ ngàng đến nguyên sơ, khiến du khách phải dừng chân ngẫm ngợi.
Nhưng nếu chỉ có thế thì chưa đủ thuyết phục, rằng Drai Kpơr là một huyền thoại, và nếu có thì cũng chỉ nằm trong quan niệm dân gian mà thôi.
Ngồi quanh ché rượu cần bên bập bùng ánh lửa, nghe già làng Ama Bin kể lại những câu chuyện thời kỳ chống đế quốc Mỹ mới thấy những "bí mật" rất khó lý giải.
Chuyện rằng: Vào những năm 60 của thế kỷ trước, Mỹ - Diệm sau luật 10/59 vô cùng tàn khốc, chế độ gia đình trị là nguyên cơ sinh ra chiến dịch hết sức quái đản là dồn dân, lập ấp với cái tên sặc mùi chiến tranh "nhân dân": Ấp chiến lược trên toàn lãnh thổ miền nam Việt Nam, kể từ bên này vĩ tuyến 17. Tây Nguyên, một vùng đất mang tầm chiến lược, cũng không nằm ngoài chiến dịch ấy. Và Buôn Trưng cũng như nhiều buôn làng khác, nơi mà ý đồ "chiến thuật" mị dân dùng người Thượng làm lực lượng nòng cốt (lực lượng Furô) để triệt tiêu cộng sản nằm vùng được khai thác triệt để. Thế nhưng chúng đã vấp phải sự kháng cự hết sức quyết liệt. Những người già, trẻ con tản cư hết vào rừng, đám thanh niên ở lại tham gia cùng cách mạng giữ làng, giữ rẫy.
Căn cứ cách mạng Drai Kpơr hình thành từ thời điểm khó khăn này. Mật danh H1 (mật danh của một đơn vị quân giải phóng) cũng ra đời từ đó và đóng quân ngay dưới chân Drai Kpơr, trong sự hậu thuẫn của nhân dân địa phương. Mỹ - ngụy đã phát hiện ra căn cứ này và điên cuồng tiến hành những cuộc khủng bố trắng, nhưng lạ một điều, bom tạ, bom tấn mà chúng thả xuống nơi đây nếu có quả nào rơi gần căn cứ Drai Kpơr thì... không bao giờ nổ!
Anh Ama Rin, bộ đội đặc công thuộc đơn vị V100 thời chống đế quốc Mỹ kể: "Năm 1970, không quân địch tổ chức oanh tạc vào căn cứ, một quả bom rơi ngay cạnh thác đã không thể nổ. Mình tìm cách tháo ngòi nổ, mang vỏ bom về làm "chiến lợi phẩm". Kể từ đó, quả bom câm được dùng làm kẻng báo động, là hiệu lệnh để tập hợp lũ làng mỗi khi có sinh hoạt cộng đồng. Hiện quả bom này vẫn còn được lưu giữ, và là vật không thể thiếu đối với người Buôn Trưng...".
Với truyền thống cách mạng, một lòng theo Cụ Hồ, một lòng theo ảng, dân làng Buôn Trưng quyết không nghe theo lời kẻ xấu với cái gọi "Nhà nước ề Ga" do những thế lực lưu vong phản động tại nước ngoài kích động - Ama Rin đã quả quyết như vậy khi tôi tế nhị nhắc đến câu chuyện buồn vẫn đang là một bài học nóng hổi.
Hiện thắng cảnh Drai Kpơr đang được bảo tàng văn hóa tỉnh ắk Lắk lập hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận di tích lịch sử, với mong muốn đánh thức một địa danh du lịch văn hóa bấy lâu ngủ quên trong rừng.
Trong tương lai, bà con Buôn Trưng sẽ vui mừng đón những du khách thập phương đến tham quan. Và, chắc chắn những câu chuyện đẫm mầu huyền tích gắn liền với quá trình đấu tranh giữ đất của người Ê ê sẽ lại có dịp vang xa. Không những thế, việc công nhận Drai Kpơr là di sản cấp quốc gia còn nêu cao ý thức bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, để rồi từ niềm tự hào ấy những giá trị về giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mãi được khơi nguồn.
Dã ngoại suối Ba Li - Khánh Hoà Cách trung tâm TP. Nha Trang khoảng 30km về phía Nam, suối Ba Li nằm trên địa bàn 2 xã Cam Tân và Cam Hòa, huyện Cam Lâm (trước kia thuộc thị xã Cam Ranh). Suối Ba Li bắt nguồn từ núi Chiến, là một trong hệ thống các suối Tranh, suối Thượng (núi Chà Pau), suối Rích, suối Cóc (núi Nhọn)... đổ...