“Vùng thông báo bay” có tầm quan trọng như thế nào đối với quốc gia?
Về mặt quốc phòng, vùng FIR Việt Nam ở biển Đông là sự mở rộng không gian “sinh tồn” của lãnh thổ Việt Nam, là “phên dậu, bờ cõi” của quốc gia trên không và trên biển, là sự kiểm soát có ý nghĩa to lớn đối với an ninh và vùng trời…
Phóng viên Dân trí vừa có cuộc trao đổi với Trung tướng Võ Văn Tuấn – Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Phó Chủ tịch An ninh Hàng không dân dụng (HKDD) về “vùng thông báo bay” hay còn gọi là FIR Việt Nam, sau tròn 20 năm Việt Nam giành lại quyền quản lý FIR phía Nam.
Dư luận vừa qua nghe nhiều về vùng FIR, vậy vùng FIR có tầm quan trọng như thế nào với lĩnh vực hàng không của Việt Nam nói chung và Bộ Quốc phòng nói riêng? Vùng FIR có phải chủ quyền của mỗi quốc gia, thưa Trung tướng?
Về mặt thuật ngữ, vùng FIR không thuộc pháp lý chủ quyền. Tuy nhiên, thực tế vùng FIR của mỗi quốc gia được quản lý đều có giá trị chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích.
Về mặt quản lý và điều hành bay, vùng FIR thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của cộng đồng hàng không quốc tế và nó mang lại lợi ích hàng triệu USD cho ngân sách khi các chuyến bay quốc tế bay qua vùng FIR của Việt Nam…
Trung tướng Võ Văn Tuấn trả lời phỏng vấn phóng viên báo Dân trí.
Về mặt quốc phòng, vùng FIR Việt Nam ở biển Đông là sự mở rộng không gian “sinh tồn” của lãnh thổ Việt Nam, là “phên dậu, bờ cõi” của quốc gia trên không và trên biển, là sự kiểm soát có ý nghĩa to lớn đối với an ninh và vùng trời, ngăn ngừa từ xa các hoạt động đe dọa đến an ninh quốc phòng và chủ quyền của Việt Nam.
Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam luôn sâu sát chỉ đạo chặt chẽ, Bộ Quốc phòng thường xuyên quan tâm đến sự phát triển ngành hàng không, chỉ đạo các đơn vị quân đội giúp đỡ về cơ sở hạ tầng, xây dựng văn bản pháp quy, phát triển hệ thống đường hàng không, thết lập và duy trì cơ chế hiệp đồng giữa quân sự và dân dụng… vừa bảo đảm quản lý bảo vệ chủ quyền vững chắc vừa làm tốt công tác quản lý vùng trời, quản lý bay và sẵn sàng chiến đấu cao.
Sau năm 1975, vùng FIR của Việt Nam được quản lý như thế nào, thưa Trung tướng?
Vùng trời Việt Nam được tổ chức 2 FIR, FIR Hà Nội và FIR Sài Gòn. FIR Sài Gòn được thành lập từ năm 1959. Tháng 4/1975, trước ngày giải phóng Sài Gòn, ICAO (Tổ chức hàng không Dân dụng quốc tế) đã quyết định chia FIR Sài Gòn trên biển Đông thành 3 vùng trách nhiệm tạm thời (AOR), giao cho Hồng Kông, Thái Lan, Singapore quản lý. Việt Nam quản lý FIR Hà Nội và FIR trên vùng trời lãnh thổ phía Nam.
Nhận thấy vấn đề FIR (nhất là FIR trên biển Đông) là vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và có nhiều lợi ích nên Bộ Chính trị, Nhà nước, Bộ Quốc phòng theo dõi sát sao và chỉ đạo cụ thể. Từ tháng 12/1975, Bộ Quốc phòng triển khai phương án đấu tranh thu hồi lại toàn bộ diện tích FIR Sài Gòn đã bị mất trước kia.
Sau 18 năm đấu tranh, đàm phán với ICAO và một số nước cùng với những nỗ lực về đầu tư, trang thiết bị, con người, công nghệ quản lý điều hành bay, đến ngày 7/12/1994, Việt Nam chính thức nhận lại vùng AOR Thái Lan và AOR Sigapore, trong FIR Sài Gòn cũ. Từ đây Việt Nam đặt tên vùng trời thu hồi được là FIR Hồ Chí Minh.
Năm nay 2014, cũng là năm mà chúng ta sẽ tổ chức kỷ niệm sự kiện trọng đại – 20 năm sau ngày Việt Nam giành lại được quyền quản lý FIR trên vùng trời biển Đông do các nước ngoài trước đây quản lý, mà giờ đây người ta quen gọi là FIR Hồ Chí Minh.
Video đang HOT
Riêng vùng AOR Hồng Kông (phía Bắc FIR Sài Gòn cũ), năm 1997, Trung Quốc thu hồi Hồng Kông và muốn thiết lập, mở rộng vùng FIR Sanya trên vùng AOR Hồng Kông. Trong khoảng thời gian từ năm 1997 – 2001, Việt Nam tiếp tục đàm phán với ICAO và Trung Quốc nhằm xóa bỏ vùng AOR Hồng Kông và đã đồng ý với đề xuất của ICAO áp dụng “gói thử nghiệm đường bay thẳng trên biển Đông, thử nghiệm các điểm chuyển giao kiểm soát giữa ACC Hà Nội/ Hồ Chí Minh với ACC Sanya”.
1/11/2001, gói thử nghiệm có thời hạn 3 năm có hiệu lực, theo đó Việt Nam đã mở rộng vùng FIR Hồ Chí Minh lên phía Bắc, thu hồi được khoảng 116.000km2 của AOR Hồng Kông; đẩy đường ranh giới AOR Hồng Kông ở phía Tây giáp gần với đường lãnh hải vùng biển miền Trung về phía Đông, đẩy ranh giới phía Nam của FIR Hồ Chí Minh từ vĩ tuyến 12độ22 phút lên 14độ30 phút N. Vùng AOR Hồng Kông quản lý còn lại được đặt tên mới là AOR Sanya do Trung Quốc tạm thời quản lý.
Ngày 8/6/2006, ICAO quyết định chuyển vùng AOR Sanya thành FIR Sanya. Từ đây, hình thành 2 FIR (FIR Hồ Chí Minh và FIR Sanya) có ranh giới rõ ràng.
Thưa Trung tướng, hiện nay Việt Nam quản lý, khai thác FIR như thế nào?
Hiện nay chúng ta đã quản lý và điều hành hàng vạn chuyến bay quốc tế trật tự, an toàn. Không để xảy ra bất kỳ sự cố nào đe dọa đến an ninh, an toàn hàng không, gánh vác, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả có trách nhiệm với cộng đồng hàng không quốc tế về các yêu cầu của ngành hàng không. Chúng ta tự hào về trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng ta và được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Sau nhiều năm đấu tranh, đàm phán, Việt Nam đã giành lại quyền quản lý FIR phía Nam và thể hiện trách nhiệm với Tổ chức HKDD quốc tế (ICAO).
Ví dụ như vụ máy bay MH370 của Malaysia vừa rồi khi chỉ còn 2 phút nữa là vào vùng FIR Hồ Chí Minh, tuy nhiên khi Việt Nam mới nhận được tín hiệu máy bay MH370 sẽ vào vùng trời Việt Nam thì đột nhiên mất tín hiệu. Sau đó Việt Nam đã tích cực tìm kiếm máy bay bị mất tích, đó là Việt Nam luôn thể hiện trách nhiệm của mình trước cộng đồng quốc tế trước những sự kiện tương tự.
Thưa Trung tướng, vậy có thể hiểu đúng thuật ngữ FIR như thế nào?
FIR tên đầy đủ bằng tiếng Anh là Flight Information Region, để chỉ “vùng thông báo bay” sử dụng trong ngành quản lý bay ở một vùng trời với giới hạn xác định trong đó có cung cấp dịch vụ thông báo bay và dịch vụ báo động theo quy định của ICAO.
Về mặt pháp lý quốc tế, FIR bao gồm vùng trời thuộc chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia, vùng trời được ủy nhiệm quản lý hoặc vùng trời trên công hải được ICAO xác lập và giao cho các thành viên của ICAO quản lý để cung cấp các dịch vụ không lưu, phụ thuộc và hoạt động HKDD. Việc ra quyết định ranh giới FIR của ICAO phụ thuộc vào bảo đảm trang thiết bị quản lý bay và năng lực quản lý không lưu của mỗi quốc gia.
Xin cảm ơn Trung tướng!
Tuấn Hợp (thực hiện)
Theo Dantri
Vì sao Việt Nam huy động tổng lực tìm kiếm máy bay Malaysia?
Việt Nam huy động lực lượng chủ lực trên không, trên biển và phương tiện hiện đại thực hiện quy mô tìm kiếm cứu nạn máy bay mất tích với qui mô lớn chưa từng có, cùng với sự tham gia của Mỹ, Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Philippine trên khu vực biển Đông nước ta.
Rạng sáng ngày 8/3, chiếc Boeing 777-200 của Hãng hàng không Quốc gia Malaysia (Malaysia Airlines) mang số hiệu MH370, chở theo 227 hành khách cùng 12 thành viên phi hành đoàn đang hành trình từ Kuala Lumpur đến Bắc Kinh (Trung Quốc) thì đột ngột mất tín hiệu trên màn hình radar và toàn bộ liên lạc trước khi vào không phận Việt Nam khoảng hơn 1 phút bay. Hành khách trên máy bay đến từ 13 quốc gia, trong đó có 150 người mang quốc tịch Trung Quốc.
Vào thời điểm chuyến bay MH370 mất tín hiệu, Việt Nam chưa tiếp nhận kiểm soát máy bay của Malaysia.Tuy nhiên, Trung tâm Quản lý bay đường dài (ACC) Hồ Chí Minh đã nỗ lực thiết lập mọi liên lạc với máy bay nhưng không có kết quả, hệ thống radar sơ cấp của Việt Nam lập tức được kích hoạt để rà soát toàn bộ vùng thông báo bay (FIR) nhưng cũng không ghi nhận được tín hiệu nào từ chuyến bay MH370. Nhà chức trách hàng không Việt Nam đã nhanh chóng thông báo với Malaysia và các cơ quan chức năng về sự việc.
Chuyến bay MH370 của Malaysia Airlines mất tích từ hôm 8/3
Khoảng 6 tiếng sau khi máy bay mất tín hiệu, từ giai đoạn hồ nghi Malaysia Airlines ra tuyên bố chuyến bay MH370 đã mất tích. Vị trí nghi máy bay mất tích được phán đoán là cách đảo Thổ Chu của Việt Nam khoảng 300km. Malaysia đã đề nghị Việt Nam, Singapore hỗ trợ tìm kiếm trên vùng FIR giáp ranh giữa 3 nước. Không loại trừ yếu tố khủng bố, Việt Nam đã ban bố lệnh tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không cấp độ 1.
Những giờ căng thẳng trên chuyên cơ tìm kiếm máy bay mất tích
Khu vực nghi máy bay mất tích được khoanh vùng, ban đầu là 100km2, sau mở rộng dần ra toàn vùng FIR của Việt Nam và phía Đông Bắc biển Đông, đất liền toàn vùng Nam Bộ của Việt Nam. Lực lượng tìm kiếm lúc đầu chỉ có 3 nước, sau đó có thêm sự tham gia của Philippine, Mỹ và Trung Quốc. Các nước này đã được Cục Tác chiến - Bộ Quốc phòng nước ta cấp phép vào khu vực biển Đông, mang theo tàu chiến, tàu khu trục và máy bay quân sự để tham gia tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích.
Riêng Việt Nam đã huy động tổng lực với 11 máy bay vận tải quân sự, trực thăng và máy bay tuần thám của cảnh sát biển với 55 lượt bay tìm kiếm; 7 tàu biển hoạt động suốt ngày đêm; các tàu thuyền đánh cá của ngư dân trong khu vực tìm kiếm; lực lượng trên không, trên biển, trên bộ, quốc phòng an ninh, nhân dân các địa phương tham gia tìm kiếm.
Trong quá trình này, lực lượng tìm kiếm liên tục phát hiện và nhận được điện báo về những vật thể lạ nghi là đồ dùng, áo phao, máng trượt, mảnh vỡ máy bay, cột khói, tín hiệu SOS, thậm chí có cá nhân còn cung cấp thông tin cho rằng đã nhìn thấy máy bay bốc cháy trước khi rơi xuống biển ở ngoài khơi Vũng Tàu... Tuy nhiên, những thông tin nói trên sau khi tiếp cận và rà soát đã được xác nhận là không đúng.
Giới chức các nước và nhiều chuyên gia hàng không đều nhận định việc máy bay Malaysia Airlines đột ngột mất tích là sự bất thường và lạ lùng, là sự việc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử hàng không thế giới. Yếu tố thời tiết có ảnh hưởng đến chuyến bay được loại bỏ hoàn toàn, các vấn đề kỹ thuật cũng được cân nhắc kỹ, không có dấu hiệu bình thường của một vụ tai nạn máy bay trên biển cũng như máy bay bị nổ trên không. Vì thế vấn đề con người và sự can thiệp có chủ ý trên máy bay không còn là một giả thiết mà là một hướng tập trung điều tra đặc biệt.
Việt Nam cùng với 5 nước khác đã thực hiện tìm kiếm máy bay suốt 1 tuần ròng rã
Chiều 15/3, Thủ tướng Malaysia tuyên bố dừng tìm kiếm máy bay nước này mất tích trên biển Đông với khẳng định gần như chắc chắn là hệ thống báo cáo dữ liệu đã bị ai đó "vô hiệu hóa" và sự biến mất của máy bay là "có chủ ý". Máy bay đã thay đổi hướng và quay trở lại bán đảo Malaysia, hướng về Ấn Độ Dương và di chuyển của máy bay "hoàn toàn trùng khớp với một hành động có chủ ý" của một người nào đó trên máy bay. Nước này điều chỉnh hướng tìm kiếm.
Với diễn biến này, Việt Nam quyết định dừng hoạt động tìm kiếm máy bay của Malaysia vốn được duy trì trong suốt 1 tuần qua. Ngay trong chiều 15/3, Việt Nam chính thức thông báo tình hình mới với các nước được cấp phép vào vùng trời, vùng biển Việt Nam để tham gia tìm kiếm máy bay mất tích và yêu cầu các nước rút lực lượng cùng phương tiện ra khỏi khu vực tìm kiếm trên hải phận và không phận của Việt Nam.
Vì sao Việt Nam dốc lực lượng tìm kiếm máy bay Malaysia?
Giới chức Việt Nam chưa từng đưa ra công bố nào về kinh phí nước ta phải chi ra trong suốt 1 tuần tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích, nhưng truyền thông nước ngoài đã đưa tin rằng mỗi ngày Việt Nam phải bỏ ra nhiều tỷ đồng cho việc tìm kiếm máy bay của nước bạn.
Vụ việc máy bay Malaysia mất tích trở thành tâm điểm chú ý của cả thế giới nhiều ngày qua. Không ít người đã tỏ ra khó hiểu bởi Việt Nam chẳng mấy liên quan đến vụ việc nhưng lại phải huy động tổng lực để giúp nước bạn, ngoài ra còn bỗng dưng phải làm công tác "hậu cần" khi thực hiện cấp phép và quản lý sự tham gia tìm kiếm của các nước khác trên chính lãnh thổ nước mình. Trong khi đó, nước có máy bay mất tích là Malaysia lại chưa thực sự hợp tác trong suốt quá trình xảy ra sự việc. Vậy lí do ở đây là gì?
Trao đổi với PV Dân trí, lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải khẳng định: Việt Nam tham gia tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích không chỉ vì trách nhiệm trong quy định và cam kết quốc tế về tìm kiếm cứu nạn mà còn vì tinh thần nhân đạo, tinh thần hợp tác và đoàn kết quốc tế của Việt Nam. Chúng ta đã nỗ lực hết sức và triển khai tất cả lực lượng có thể để làm nhiệm vụ quốc tế này.
Cũng theo lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải, dù nói Malaysia chưa tích cực hợp tác với Việt Nam trong quá trình tìm kiếm máy bay của nước họ, nhưng hành động của Việt Nam trong những ngày qua là câu trả lời rõ ràng nhất về một đất nước trách nhiệm, đoàn kết và luôn yêu chuộng hòa bình.
Việc tìm kiếm máy bay mát tích đã được chuyển hướng và một nghi ngờ gần như là
chắc chắn là máy bay Malaysia đã bị khủng bố
Trung tướng Võ Văn Tuấn - Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam - cho biết: Hiện vẫn chưa tổng kết về tiêu hao xăng dầu, chi phí nhưng việc Việt Nam tham gia tìm kiếm không kể đến chi phí bao nhiêu mà tập trung vào việc tìm kiếm máy bay mất tích. Trong quá trình tìm kiếm, bất kỳ thông tin ở nguồn nào dù độ chính xác chỉ 1/1.000 tia hy vọng cũng đều được thu thập cho tìm kiếm.
Theo Trung tướng Võ Văn Tuấn, nếu cho rằng Việt Nam đã nhiệt tình quá mức trong việc tìm kiếm máy bay của Malaysia Airlines mất tích thì phải đặt ra thế nào là quá mức, thế nào là vừa phải?
"Việt Nam nói chung và Quân đội Nhân dân Việt Nam nói riêng đã triển khai lực lượng sớm nhất trong khu vực vì nắm vững đường bay dự kiến vào Việt Nam mặc dù chưa vào FIR Việt Nam. Chúng tôi xác định trách nhiệm của chúng tôi vì con người, vì cộng đồng" - Trung tướng Tuấn nhấn mạnh.
Ngay tư khi chuyên bay MH370 cua hang Malaysia Airlines bi &'mât tich', cac hoat đông đi đâu trong công tac tim kiêm cua Viêt Nam cung nhanh chong đươc thực hiện đã khiến dư luân cac nươc trên thê giơi ghi nhân. Họ đã nói rằng: "Ngươi Viêt Nam qua tôt. Vi điêu duy nhât may ra co liên quan chi la chiêc may bay co thê đa rơi đâu đo ngoai khơi Viêt Nam... Chinh phu Viêt Nam đa chưng to cho quôc tê thấy tinh trach nhiêm cao trươc môt vu viêc mang tinh nhân đao liên quan đên nhiêu quôc gia".
Châu Như Quỳnh
Theo Dantri
Sáu ngày "quét" trên biển Đông vẫn bặt tăm máy bay mất tích Đến thời điểm hiện tại, sau 1 tuần máy bay mất tích, có nhiều thông tin mới được đưa ra và phía Việt Nam đều kiểm tra theo những thông tin đó, tuy nhiên chưa phát hiện ra những dấu hiệu của việc máy bay mất tích. Chiều 13/3, lãnh đạo Sở chỉ huy tiền phương đã có buổi gặp gỡ ngắn để...