“Vùng đất thiêng” trong khu rừng lim
Ít ai ngờ chỉ cách Hà Nội gần 100 cây số, tại vùng An Lạc, huyện Chí Linh (Hải Dương) lại có một khu rừng lim ngàn năm tuổi. Những truyền thuyết lịch sử của vùng đất đã gắn với rừng lim khiến khu rừng không chỉ là nơi để du khách bốn phương đến tham quan, ngắm cảnh, mà còn trở thành “ vùng đất thiêng” trong lòng người dân địa phương.
Kỳ thú rừng ngàn tuổi
Khu rừng còn có tên là rừng lim đền Cao, hiện còn hàng chục gốc lim cổ thụ, mỗi gốc mang một hình thế nhuốm vẻ rêu phong thời gian. Rừng lim đền Cao có từ bao giờ, người cao tuổi nhất làng cũng không nhớ được. Chỉ nghe các cụ truyền nhau, nó có từ lâu lắm rồi. Cụ Dương Văn Luyện, một người dân địa phương cho biết: “Từ khi tôi còn là đứa trẻ con chăn trâu, cắt cỏ đã thấy rừng lim cổ thụ thế này. Hỏi bố tôi, ông nội tôi thì mọi người đều nói nhiều đời trước người ta đã thấy rừng lim cổ thụ như thế”.
Có người cho rằng, tuổi của rừng lim có thể đạt 300 – 400 năm nhưng có cụ già khẳng định, rừng lim có đến 800 – 900 năm tuổi. Theo nhận định của một nhà sử học, rừng lim có thể được trồng vào thời Tiền Lê.
Cũng có thông tin cho rằng 54 cây lim còn sót lại trong khu rừng hôm nay là một phần của rừng lim trước kia trải rộng đến tận phía Quảng Ninh. Sở dĩ có nhận định này vì hiện nay, ở khu vực huyện Yên Hưng (tỉnh Quảng Ninh, cách đó hàng chục km) còn có 2 cây lim rừng cổ thụ cùng họ với những cây cổ thụ trong rừng lim đền Cao. Nhiều người già cho rằng 2 cây đó trước từng thuộc vào rừng lim. Và rất có thể, đây là “hậu duệ” của rừng lim mà Ngô Quyền sai quân chặt cây, vót nhọn đầu rồi bọc sắt cắm xuống cửa sông Bạch Đằng làm nên chiến thắng lịch sử đánh tan quân Nam Hán năm 938…
Giải mã “đền thiêng”
Khu rừng nổi tiếng không chỉ vì những cây gỗ ngàn năm tuổi, mà còn được nhiều người biết đến vì ngôi đền tọa lạc trong khu vực. Bước qua 113 bậc tam cấp, người ta sẽ đặt chân lên ngôi đền cổ kính, thấp thoáng trong vẻ u tịch của rừng Lim. Đền Cao tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Bồng thuộc dãy núi Voi, trước mặt là dòng Nguyệt Giang mềm mại uốn lượn ôm ấp trọn vùng đất này. Theo truyền thuyết, đó là vùng đất thiêng, nơi tụ hội của 99 ngọn núi lớn nhỏ.
Video đang HOT
Trong tâm trí của người dân địa phương, đền Cao là một ngôi đền thiêng. Cụ Dương Văn Luyện (80 tuổi), Trưởng ban khánh tiết đền Cao cho biết: Ngày xưa, đền Cao chỉ là một ngôi cổ miếu nhưng theo quan niệm của người địa phương, đền là nơi linh thiêng vì lưu giữ các sắc phong liên quan đến 5 vị tướng người địa phương ngày xưa.
Voi đá trước cửa đền Cao trên núi Thiên Bồng
Ngôi đền càng trở nên bí ẩn hơn khi người ta chỉ biết thông tin đến thế, chứ không biết đền là nơi thờ phụng ai. “Vì lời nguyền giữ “bí mật” nên khi khấn, chỉ được lẩm nhẩm gọi các ngài là “bề trên”, là “đại vương”, chứ tuyệt nhiên không một ai biết sự tích và tên tuổi của các “ngài”", cụ Diệm nói.
Bí mật đã được tiết lộ khi năm 1988, cụ Dương Văn Diệm, thủ nhang trưởng ban khánh tiết mới họp bàn với các cụ già trong làng, quyết định mở các sắc phong đã được đời nối đời lưu giữ trong cung cấm. Khi đó, ngôi đền mới được xếp hạng Di tích lịch sử và một phần thân thế của các danh tướng được thờ phụng trong đền được hé lộ.
Theo đó, truyền thuyết cho rằng vào thời Đinh, có hai vợ chồng họ Vương sống với nhau đã lâu nhưng chưa có con. Khi đến vùng đất An Lạc ngày nay, ông bà thấy đây là một vùng đất bình yên, thuần hậu, nên đã ở lại sinh cơ lập và sinh được 5 người con. 5 người con lớn lên học hành binh thư chữ nghĩa rất tinh thông. Năm 981, quân Tống xâm lấn bờ cõi nước ta. Nhà vua truyền hịch đi khắp nơi tìm người hiền tài ra phò vua giúp nước. Lúc này, năm người con họ Vương đang có tang cha mẹ nên không dám về triều ứng thí. Đến khi nhà Vua đem quân đi đánh giặc qua vùng này, đã cho lập đồn trại đóng quân tại đây và chiêu dụng năm chị em. Khi ấy, 5 vị tướng cầm quân, giáp chiến một trận cực kì ác liệt. Quân giặc thua to. Chưa nhận tiệc khao mừng thì 5 ngài đều thăng hoá về trời. Nhân dân kéo đến xem thì đã thấy mối đất đùn thành những ngôi mộ lớn liền lập đền hương khói. Đền có từ ngày ấy.
“Báu vật” vùng An Lạc
Có lẽ vì tấm lòng tri ân với người xưa giúp nước nên người dân địa phương đã “thần thoại hóa” những câu chuyện xung quanh khu rừng và ngôi đền này. Rừng được “nhân cách hóa” như người thật.
Trong câu chuyện với chúng tôi, nhiều người dân kể lại những tình huống thực hư mờ ảo về “vùng đất thiêng”. Nào là thời chiến tranh chống Pháp, đất An Lạc cũng từng chịu nhiều trận càn của giặc, hàng trăm quả đại bác, hàng chục tấn bom, phá tan hoang làng xóm nhưng không quả nào rơi vào ngôi đền và rừng lim. Rồi đến thời máy bay Mĩ ném bom miền Bắc, có 8 quả bom trút xuống khu vực đền nhưng đều rơi ra đồng bãi…
Thực hư về “rừng thiêng” như thế nào chưa rõ, nhưng theo một người già ở làng, cánh rừng lim nhờ đó không bị người ta xâm hại, dù gỗ lim có giá thuộc loại cao ngất ngưởng trên thị trường. Thời bao cấp, một số cán bộ xã định khai thác rừng lim đóng bàn, ghế. Khi các cụ trong thôn phát hiện ra, họ cử người ôm từng gốc cây để ngăn cản. Các cụ tuyên bố: “Có cưa thì cưa vào chúng tôi, chứ không được động đến rừng lim”.
Cụ Dương Thị Phu cho hay: “Thậm chí, đến cả củi khô rụng trong rừng, cho cũng không ai lấy, bán không ai mua, nhà đền phải nhặt bó thành bó rồi đốt ở đền”. Và như thế, rừng lim ngàn tuổi đã trở thành một “báu vật” của người địa phương.
VGT(Theo Đời sống & Pháp luật)
Bí ẩn lời nguyền của làng tiến sĩ
Lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam hơn 800 năm (1075 - 1919) ghi nhận làng Kim Đôi (xã Kim Chân, Bắc Ninh) là ngôi làng có số lượng tiến sĩ nhiều nhất: 25 người.
Người trong làng ai cũng biết giai thoại về "long mạch làm quan" trong làng, nơi ngày xưa đã bị chế độ phong kiến xây đập làm đứt gãy.
Sấm truyền linh ứng?
Ngày xưa, làng còn có tên Dủi Quan vì dù người dân sống bằng nghề dủi tôm cá ngoài đồng và sông ngòi nhưng làng lại có nhiều người làm quan. Cuốn Phong thổ Kinh Bắc thời Lê từng phong cho làng làm "lò tiến sĩ" với câu: "Kim Đôi nhiều cuộc hiển vinh, Hai mươi lăm vị khoa danh rỡ ràng".
Cụ Nguyễn Nhân Tiên (86 tuổi, hậu duệ đời thứ 17, Trưởng Ban đại diện dòng họ Nguyễn Kim Đôi) cho biết: 5 anh em họ Nguyễn Chính là người đặt những viên gạch đầu tiên xây nên "Làng Tiến sĩ", mang về cho quê hương 8 chữ vàng "Kim Đôi gia thế, chu tử mãn triều" do vua Lê Thánh Tông ban tặng. Bia Minh thế hệ còn lưu giữ trong Từ đường họ Nguyễn ghi: "Ngày xưa nhà nghèo chỉ có tiền kẽm rỉ xanh mà đi thi đỗ đạt cao thật hiếm có trong dân gian, nhưng được ghi tên bảng vàng thì họ ta có rất nhiều".
Dân gian kể lại, bước hoạn lộ khoa cử của người làng hiển vinh rộng mở trải mấy trăm năm rồi cũng dần khép lại như lời sấm truyền: "Bạch nhạn sinh mao anh hào tận" (Nếu bãi cát vùng Bạch nhạn còn sinh sôi thì đường hoạn lộ còn hanh thông). Thời gian dâu bể, bãi Bạch nhạn xưa đã dần thành làng mạc, khu dân cư đông đúc. Và sự học của con cháu trong lần cũng dần thoái trào kể từ sau vị tiến sĩ thứ 18 đỗ khoa Canh Thìn 1700.
Ý chí vượt qua lời nguyền
Ông Nguyễn Quang Tiềm, thành viên Ban đại diện dòng họ Nguyễn cho biết: Không chỉ tin vào ứng nghiệm từ lời sấm truyền, đến giờ người làng Kim vẫn còn lưu truyền giai thoại về nguyên nhân dẫn đến những đứt đoạn trên bước đường khoa cử của dòng tộc mấy trăm năm qua. Số là sau khi được vua Lê Thánh Tông ban tặng tám chữ vàng: "Gia thế Kim Đôi chu tử mãn triều" (Dòng họ Kim Đôi áo đỏ áo tía đầy triều), chốn quan trường thị phi đã xuất hiện những sự đố kị ganh ghét dèm pha và nó cứ âm ỉ theo thời gian. Với ngầm ý muốn "triệt tiêu" long mạch đất Dủi Quan, một vị quan người làng gần đó đã dùng kế "vị công vi tư", dâng tấu biểu đề nghị nhà vua cho xẻ thân đê làm cống tại điểm này với lý do tiêu thoát lũ ra sông Cầu. Biết được thâm ý, song vì theo lệnh quan trên, người Dủi quan đành ngậm ngùi nhìn "long mạch- đầu rồng" đứt gãy vì bị xẻ ngang. Cũng từ đó, người Kim Đôi dù có học rộng hiểu sâu đến mấy cũng khó đỗ đạt cao và họ chỉ có thể làm các chức quan nhỏ mà khó ghi tên mình vào Bảng vàng khoa cử như tổ tiên thuở trước. Dấu tích nơi long mạch đứt gãy xưa giờ vẫn còn, là chiếc cống qua đê hữu Cầu.
Gần ba thế kỷ trôi qua, lời sấm truyền cùng giai thoại "triệt tiêu long mạch" đất Dủi Quan rồi cũng dần được hóa giải bởi chính lực học cùng quyết tâm nhân lên truyền thống cha ông của con cháu trong làng. Làng hiện có hàng trăm người đỗ cử nhân, hàng chục thạc sĩ và ít nhất 3 tiến sĩ. Câu chuyện long mạch làm quan ngày xưa chẳng hiểu thực hư, nhưng theo lời một vị cao niên trong làng: "Những truyền thuyết này đã là động lực để con cháu trong làng phấn đấu học tập, rèn luyện hơn, để không hổ danh với những truyền thống của cha ông".
Theo Đời sống & Pháp luật
Đôi vợ chồng chống lại 'lời nguyền chết chóc' Hai đứa trẻ sinh đôi, đứa đầu được giữ lại để nuôi còn đứa thứ hai buộc phải chôn sống; người mẹ khi sinh nở không may bị chết thì đứa con cũng phải chôn theo... Đó là hủ tục rùng rợn đã cướp đi nhiều sinh mạng trẻ em dân tộc Ma Coong (Quảng Bình). Bằng ý chí chống lại cái ác,...