Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ (Kỳ 1)
Quá nghèo để có thể thuê luật sư, một người đàn ông 51 tuổi đã tự bào chữa cho mình khi bị cáo buộc liên quan đến một vụ trộm.
Clarence Earl Gideon, 51 tuổi
Ngày 3/6/1961, Clarence Earl Gideon, 51 tuổi bị bắt vì nghi ngờ đột nhập vào một cửa hàng ở Florida. Quá nghèo để có tiền thuê luật sư, Clarence đã tự bào chữa cho mình tại tòa, và nhận mức án cao nhất cho khung hình phạt của tội trộm cắp.
Không chấp nhận bản án đó, Clarence đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về những điều luật có liên quan và nộp đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao với hi vọng thay đổi được bản án của mình và của hàng ngàn người đang bị kết án tương tự vào thời điểm đó.
8h sáng ngày 3/6, khi Ira Strickland, chủ cửa hàng đến mở cửa, cảnh sát đã có mặt ở đó.
Cảnh sát Deull Pitts thông báo với Ira Stickland rằng quán của ông đã bị kẻ trộm đột nhập trong đêm. Tên trộm đã phá vỡ một cánh cửa kính và trèo vào bên trong. Ira Trickland không quá bất ngờ khi nghe thông tin này.
Cửa hàng của Ira Trickland nằm ở một góc cảng, gần khu nhà máy giấy ở vùng ngoại ô tồi tàn của thành phố Panama, Florida.
Không mất quá nhiều thời gian để Ira Strickland xác định được tên trộm đã lấy đi những gì bên trong cửa hàng, 65 đô la tiền mặt, hầu hết là tiền xu trong các máy chơi game tự động, 12 chai bia, 12 lon cô ca và một chai rượu vang rẻ tiền gần hết. Tổng giá trị những thứ bị mất khoảng 100 đô la.
Cảnh sát Deull Pitts cho biết, một thanh niên 22 tuổi tên là Henry Cook, sống ở gần đấy đã nhìn thấy tên trộm.
Nhân viên cảnh sát của thành phố Panama trong khi đi tuần đã thấy cửa chính của cửa hàng đã mở và Henry Cook ở gần đấy. Nghi ngờ có điều bất thường, nhân viên này đã hỏi Henry một vài thông tin, Henry cho biết anh vừa ở nơi làm về, hôm qua do uống say nên giờ anh mới về nhà.
Video đang HOT
Henry cho biết thêm, anh nhìn thấy có bóng người di chuyển bên trong cửa hàng nên đứng lại quan sát. Một người đàn ông rời khỏi cửa hàng, tay xách một chai rượu. Người này đến quầy điện thoại gần đó gọi điện. Một chiếc taxi xuất hiện, người đàn ông này nhanh chóng rời đi.
Henry nhận ra người đàn ông đó là Clarence Gideon, người đàn ông gầy gò, khuôn mặt hốc hác, nhân viên của cửa hàng. Clarence sống gần khách sạn Bay Harbor, với mức giá thuê 6 đô la một tuần.
Một giờ sau đó, cảnh sát đã tìm thấy Clarecen ở một quán rượu trung tâm thành phố Panama. Clarence bị bắt giữ, trong túi có hơn 25 đô la tiền xu.
Clarence bị cáo buộc đã đột nhập vào cửa hàng của Ira Strickland và lấy đi một số đồ đạc, kể cả số tiền xu trong những máy chơi tự động. Tuy nhiên, Clarence khẳng định số tiền xu trong túi mình là tiền thưởng do ông chơi được, không phải do lấy trộm.
Quá nghèo để có thể thuê luật sư riêng cho mình, Clarence quyết tâm chống lại những lời cáo buộc từ phía cảnh sát. Ở tuổi 51, Clarence không còn lạ gì những phòng xử án và ông biết những kiến thức về pháp luật của mình đủ để ông thanh minh trước tòa.
Thẩm phán Robert McCrary cho biết, theo luật pháp bang Florida, Clarence không thể tự bào chữa cho mình trong phiên tòa này.
Clarence phản đối điều đó, “Tòa án Tối cao Hoa kỳ cho phép tôi có quyền được đại diện cho mình như một luật sư.”
Quyết định của thẩm phán và việc tự chứng minh mình vô tội của Clarence trong vụ án này đã giúp cho 949.600 trường hợp tương tự Clarence thoát án tại các bang ở Mỹ năm 1961.
Ngày 4/8, hai tháng sau khi đột nhập vào cửa hàng của Ira Strickland, Clarence phải đối mặt với phiên tòa xét xử cho tội danh trộm cắp. Clarence tự đại diện cho mình. “Đối thủ” của ông là công tố viên William Harris.
Thấm phán McCrary làm chủ tọa phiên tòa, một đoàn bồi thẩm gồm 6 thành viên. Hai người được triệu tập đến phiên tòa theo công tố viên Harris, Ira Strickland, chủ cửa hàng và nhân chứng Henry Cook.
Theo lời khai của Ira, chính anh là người đã khóa cửa cửa hàng vào nửa đêm ngày 2/6 và quay lại đó lúc 8h. Anh xác nhận khóa cửa chính đã bị mở và một số tiền xu, đồ đạc trong cửa hàng mình đã bị lấy đi.
Henry Cook lặp lại lời khai như anh đã khai nhận vào sáng sớm ngày 3/6. Anh thấy Clarence bước ra khỏi cửa hàng sáng sớm hôm đó với một chai rượu vang trên tay, đến quầy điện thoại gần đó gọi điện, sau đó lên taxi đi mất.
Theo Khampha
Cái chết bất ngờ của người đàn ông nghèo (Kỳ 1)
Một người đàn ông nghèo bất ngờ bị bắn chết trên đường đi làm. Hung thủ là một bác sĩ phẫu thuật mắc bệnh hoang tưởng.
Biểu tượng của nhà máy bia Red Lion
2h sáng ngày 17/2/1872, George Merrett, 34 tuổi, rời khỏi nhà đến nơi làm việc. Anh làm công nhân tại nhà máy bia Red Lion.
Công việc của George luôn đòi hỏi anh phải dậy rất sớm và làm theo ca dài trong điều kiện nóng nực. Tiền lương của anh chỉ đủ để nuôi sống gia đình nhỏ của mình. Anh sống cùng vợ và 6 người con tại một căn nhà nhỏ trên đường Cornwall, Lambeth, London, cách nơi làm việc không xa.
George và vợ anh, Eliza có 6 đứa con, đứa bé nhất 1 tuổi, đứa lớn nhất mới chỉ 13 tuổi. Eliza đang mang bầu đứa thứ 7. Họ sống cuộc sống nghèo đói trong một khu vực tồi tàn ở London. Mặc dù công việc của George khá vất vả, nhưng cả hai vợ chồng còn may mắn hơn những gia đình khác sống cùng khu khi họ có công việc ổn định. Họ cố gắng làm tất cả những gì có thể vì những đứa con của mình.
Sáng lạnh hôm đó, George rời khỏi nhà đi làm như bình thường. Anh đi dọc con đường Belvedere Roadtoward. Khi tới gần bức tường lớn bao quanh nhà máy, anh nghe thấy tiếng la hét, nó cắt ngang sự im lặng vốn có tại thời điểm 2h. Tiếng la hét càng lúc càng lớn hơn và nghe rõ hơn, George bước nhanh về phía tiếng la hét phát ra với sự lo lắng, bất ngờ, George nhìn thấy một người đàn ông trung tuổi, tay cầm súng hướng về phía mình.
George giật mình bỏ chạy, anh nghe có tiếng súng phát ra phía sau, hình như người đàn ông này đang cố gắng xả súng về phía anh. Vài giây sau đó, George trúng đạn, bị hai viên đạn trúng vào cổ, William nằm gục xuống đường.
Một số công nhân làm việc gần đó nghe thấy có tiếng súng liền chạy lại, họ hoảng hốt khi nhìn thấy George nằm trên vũng máu. George vẫn còn thở. Anh được đưa đến bệnh viện Thomass. Chỉ gần tiếng sau đó, Geroge qua đời do mất quá nhiều máu.
Cảnh sát nhanh chóng xác nhận được nghi phạm liên quan đến cái chết của George.
Gần hiện trường, một nhân viên cảnh sát khi đang đi tuần phát hiện có tiếng súng nổ, anh ta phát hiện một người đàn ông lạ đang vội vã rời đi. Khi bị hỏi, người này khai nhận rằng anh ta vừa nổ súng bắn một người lạ. Ngay lập tức, người đàn ông này được đưa tới đồn cảnh sát trên đường Tower.
Sau gần 30 phút tra hỏi, cảnh sát phát hiện ra người đàn ông này không giống như những tội phạm hình sự khác mà họ đã tiếp xúc.
Nghi phạm là William Chester Minor, 37 tuổi, một người đàn ông gốc Mỹ. William vừa chuyển đến Lambeth được một vài tháng.
William là bác sĩ phẫu thuật, từng làm việc trong quân đội. Vào thời điểm đó, cảnh sát phát hiện William có những dấu hiệu bất thường về tâm lý. William cư xử và hành động như một người bị tâm thần, hoang tưởng.
William khai rằng mình đã nhầm George với một người khác. Anh nghĩ George là một chiến binh, người thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ của mình và đang có ý định giết hại anh. Lời khai này rõ ràng đã chứng minh William có vấn đê về tâm lý.
Các nhân viên cảnh sát gặp khó khăn trong vấn đề thấm vấn lấy lời khai, họ băn khoăn không biết liệu William có đủ điều kiện để hầu tòa.
Điều tra kĩ hơn về William, thám tử Scotlan Yrard phát hiện ra nhiều điều phức tạp ở con người này.
William Chester Minor sinh tháng 6/1834 tại một phòng khám nhỏ ở Ceylon, bây giờ là Sri Lanka, một hòn đảo nằm ngoài bờ biển của Ấn Độ. William là con trai một người truyền giáo đến định cư ở Ceylon. Hai năm sau đó, em gái William, Lucy ra đời.
Khi vừa tròn 3 tuổi, mẹ William qua đời vì bệnh lao. Hai năm sau, cha anh gặp gỡ và kết hôn với một người phụ nữ gốc Mỹ đến từ New York. Gia đình anh có thêm 6 đứa trẻ, hai trong số đó đã chết vì bệnh ngay từ bé. Thời gian này, cha William làm việc tại nhà máy in, mẹ hai anh dạy học ở trường địa phương.
Ngay khi còn bé, William đã tỏ ra là một đứa trẻ thông minh, ham học hỏi. William thích thú với việc học ngoại ngữ, và đặc biệt rất thích thổi sáo. Cha mẹ William đặt nhiều niềm tin ở cậu con trai đầu này. Họ hi vọng William sẽ được được học hành tử tế tại Mỹ.
William trông khá điển trai, mới chỉ 14 tuổi, cậu đã được nhiều cô gái theo đuổi, một lý do khiến gia đình anh muốn anh đến Mỹ học là để tránh xa những cô gái này. William được gửi đến nhà chú mình, Alfred ở New Haven, Connecticut.
Theo Khampha
Tội ác kinh hoàng của "góa phụ hay cười" (Kỳ cuối) Hành động giết người của Nannie vượt quá sự tưởng tượng của mọi người khi cô lên kế hoạch giết chết chính mẹ đẻ của mình. Nannie Doss, góa phụ hay cười Trước Giáng sinh, khi mới kết hôn được vài tháng, Nannie bắt đầu quan tâm đếm mục hẹn hò trên các tờ báo của Kansas, viết thư, trả lời mail của...