Vũ khí vô hình, bị cấm trong chiến tranh vì quá nguy hiểm
Dù có được trang bị radar tối tân nhất, người ta cũng không thể phát hiện được dấu hiệu của loại vũ khí ghê gớm này.
Một binh sĩ bị bỏng khí mù tạt.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều loại vũ khí trong loạt bài sau đây bị cấm trong chiến tranh hiện đại. Chúng có sức tàn phá khủng khiếp và hậu quả để lại cho nạn nhân là vô cùng thảm khốc.
Một buổi tối mùa xuân tại thành phố Ypres nước Bỉ, đại úy Alfred Oliver được giao nhiệm vụ canh giữ một chốt chặn quan trọng, đề phòng quân Đức tràn sang. Gió mát thổi nhẹ, Alfred mắt díu lại, thầm nghĩ một đêm buồn tẻ nữa lại trôi qua.
Ở phía bên kia chiến tuyến, một tốp lính Đức hơn trăm tên đang lúi húi chuẩn bị thứ gì đó. Chúng châm lửa đốt và mảng khói đặc màu vàng bay vào không khí, lan nhanh nhờ gió thổi. Luồng gió mang theo khí lạ nhằm thẳng hướng Alfred và đồng đội đang canh gác. Alfred không biết chuyện gì xảy ra vì chẳng hề nghe thấy bất kì tiếng động nào. Không gian như ngừng trôi.
Binh sĩ Bỉ đeo khẩu trang đề phòng khí độc.
Ánh trăng sáng tỏ trên cao soi rõ cảnh vật tĩnh mịch dưới đất. Alfred vẫn thấy rõ từng thân cây, ngọn cỏ, từng chuyển động nhỏ dưới ánh sáng ngày rằm. Đột nhiên, ông thấy mắt nhòe đi khủng khiếp và nước mắt tuôn như mưa. Ông không hề nhớ nhà nhưng sao lại đổ lệ nhiều tới vậy?
Alfred thấy khó thở, ông chạy nhanh vào hào trú ẩn. Những người lính chiến đấu của ông ôm ngực, chạy nhanh xuống hầm. Họ thở khò khè. Có người nằm vật ra đất, mắt nhắm nghiền. Họ không nói được gì, chỉ biết kêu than đau đớn. Một số người tắt thở tại chỗ. Số khác quằn quại, kêu la. Alfred không hiểu chuyện gì diễn ra.
Mặt nạ phòng độc của binh sĩ thời thế chiến 1.
Sự kiện lạ xảy ra vào tháng 4.1915 này được Alfred miêu tả lại trong cuốn “Kí ức của một người lính thế chiến”: “Hàng trăm bạn bè chiến đấu của tôi thiệt mạng. Họ nghiến chặt môi, nôn mửa và ngất xỉu. Có người không chết nhưng chịu đau đớn quá lâu cũng qua đời vì kiệt sức. Không khí sặc mùi hăng nồng. Mắt ai cũng cay xè. Miệng tôi đắng nghét, đầy mùi kim loại”.
“ Sát thủ vô hình” đã cho thấy sức tàn phá khủng khiếp của nó ngay từ Thế chiến 1.
Lần đầu sử dụng
Đội pháo binh đeo mặt nạ phòng độc.
Tháng 8.1914, chỉ hai tháng sau khi Thế chiến 1 diễn ra, quân Pháp đã mang ra chiến trường một loại vũ khí mới chưa từng xuất hiện. Mục tiêu sử dụng của loại vũ khí này chính là phát xít Đức, trong bối cảnh xung đột quân sự leo thang.
Video đang HOT
Loại vũ khí kì dị của quân Pháp khiến lính Đức khó thở, buồn nôn và ngất xỉu tại chỗ. Những người lính này ngã ra đất như ngả rạ và không thể chống cự. Từ thời điểm này, khí độc – một vũ khí hóa học với tính sát thương cao – lần đầu tiên được sử dụng trong lịch sử chiến tranh loài người.
Hít phải là chết
Quân Đức đốt khí độc trong Thế chiến 1.
Loại khí độc đầu tiên được dùng là “khí độc hơi cay”, khiến đối phương hít phải sẽ đổ nước mắt liên tục. Khí hơi cay sẽ khiến miệng, phổi và họng người tiếp xúc bỏng rát và rất khó thở. Tiếp xúc lâu với loại khí này sẽ gây ra hội chứng mù tạm thời và phải mất 30 phút nạn nhân mới có thể bình phục. Trong thực tế, lần đầu tiên sử dụng khí độc hơi cay không có được hiệu quả như mong muốn.
Loại khí độc mạnh hơn được quân Đức dùng là khí clo, sử dụng trên phạm vi lớn tại thành phố Ypres (Bỉ) tháng 4.1915. Khí clo đậm đặc hơn không khí 2,5 lần, có màu xanh nhạt và mùi như thuốc tẩy. Nhiều binh sĩ mô tả nó “như mùi dứa và hạt tiêu trộn lại”. Khi phản ứng với nước trong phổi, khí clo tạo ra axit hydrochloric và khiến nạn nhân chết nhanh chóng. Ở hàm lượng thấp, khí clo gây ho, nôn mửa và bỏng mắt.
Ngay trong lần đầu tiên sử dụng, khí clo đã gây chết người. Những binh sĩ của Bỉ không sử dụng mặt nạ hơi cay đã bị giết chết ngay lập tức. Ít nhất 5.000 lính tử nạn trong lần đầu tiên khí clo được sử dụng. Quân Đức không lường trước khả năng của khí độc clo nên không dồn quân vào chiếm thành phố khi lượng lớn binh sĩ Bỉ tử nạn.
Khí độc thường được trộn nhiều loại khác nhau để tăng độc tính.
Vấn đề lớn nhất với khí clo là nó rất dễ bị phát hiện do có mùi đặc trưng và màu xanh khi bay trong không khí. Do khí clo hút nước nên binh sĩ có thể chống lại chất độc này bằng cách sử dụng tấm giẻ tẩm nước để trước mũi.
Quân Anh từng tìm cách sử dụng khí clo ở thành phố Loos tại Pháp. Tuy nhiên, khí clo bay ra đổi hướng do gió thổi ngược và khiến quân Anh tổn thất không nhỏ sinh lực.
Loại khí làm phổi ngập nước
Chó đeo mặt nạ phòng độc.
Khí độc phosgene là loại tiếp theo được sử dụng trong chiến tranh hiện đại. Lần đầu tiên nó được sử dụng là vào tháng 12.1915. Quân Đức chọn loại khí độc này vì nó không màu và có mùi cỏ khô.
Để phát hiện được mùi của khí phosgene, nồng độ của khí này phải đạt mức cao. Phosgene phản ứng với protein trong các túi phổi và khiến máu không thể lưu thông dẫn đến chết ngạt. Khí độc này mạnh hơn clo và các triệu chứng mất khoảng 48 tiếng để kết thúc. Tác động ngay lập tức của nó là ho, ngứa mắt và khó thở. Phosgene khiến phổi ứ nước và làm nạn nhân tử vong.
Không chỉ người mà cả lừa cũng đeo mặt nạ phòng độc.
Theo đánh giá của tờ BI, hơn 85% trong tổng số 91.000 ca chết vì khí độc hồi Thế chiến 1 là do khí độc phosgene gây ra. Con số chính xác chưa thể đưa ra vì quân đội các nước thường trộn phosgene cùng khí clo để gây hiệu quả mạnh hơn một đơn chất.
Lí do trộn các hợp chất là bởi sau một thời gian chiến tranh, nhiều binh sĩ tự trang bị cho mình mặt nạ chống độc. Để buộc đối phương tháo mặt nạ phòng độc, trong khí độc phải chứa chất clo khiến họ hắt hơi, sổ mũi hoặc ngứa mắt. Khi tháo mặt nạ ra dụi mắt, khí phosgene sẽ phát huy tác dụng giết nạn nhân.
Cứ phồng rộp da là chết
Khí độc không mùi và khiến nạn nhân tổn thương nhanh chóng mắt, hệ hô hấp và da.
Một trong những loại khí phổ biến nhất trong chiến tranh hiện đại là khí mù tạt sulphur. Khí mù tạt gồm nhiều loại chất khác nhau, thường là không màu nhưng có mùi tỏi hoặc hơi hăng. Khí độc này khiến da phồng rộp và bỏng nếu tiếp xúc. Điểm đặc trưng là những chỗ phồng rộp có chất dịch màu vàng bên trong.
Khí mù tạt nguy hiểm chính vì không có triệu chứng cụ thể. Ở thời điểm da bắt đầu mẩn ngứa và phồng rộp, đó là lúc nạn nhân biết mình sắp chết. Khí mù tạt có hiệu quả rất lớn vì khi binh sĩ tiếp xúc khí này, họ sẽ mất khả năng quay lại chiến trường đánh nhau. Những người còn sống cũng dễ mắc ung thư hơn sau khi về già.
______
Một loại vũ khí khi nổ sẽ tạo ra các mảnh vỡ rất khó nhìn thấy và khiến bác sĩ rất vất vả để gắp mảnh vỡ ra ngoài. Đón đọc kì 2 xuất bản lúc 0h30 ngày 15.7.
Theo Danviet
Chiến dịch xâm lược đẫm máu nhất mọi thời đại của Hitler
Cuộc tấn công tổng lực vào Liên Xô khiến hàng chục triệu người thiệt mạng năm 1941 của phát xít Đức được xem là cuộc xâm lược ác liệt nhất trong lịch sử.
Trận Stalingrad đánh dấu sự thất bại của quân Đức ở mặt trận phía Đông. Ảnh: Wikipedia.
Sau khi đánh chiếm Pháp và nhận thấy việc tấn công Anh không hề dễ dàng, phát xít Đức chuyển sự chú ý trở lại mặt trận phía Đông với tham vọng thôn tính Liên Xô vào mùa xuân năm 1941. Đây được đánh giá là chiến dịch đẫm máu nhất trong lịch sử và cũng là nguyên nhân đẩy phát xít Đức vào tình cảnh diệt vong, theo National Interest.
Cuộc chiến trên bộ
Ngày 22/6/1941, lục quân và không quân Đức tràn vào biên giới Liên Xô. Cùng ngày, quân đội Romania cũng tấn công khu vực Bessarabia do Liên Xô kiểm soát. Phần Lan tham chiến sau đó một tuần, trong khi máy bay và bộ binh Hungary mãi tới đầu tháng 7 mới tham gia.
Ở thời điểm đó, lượng lớn quân Italy đang trên đường tới mặt trận phía Đông. Một sư đoàn quân tình nguyện Tây Ban Nha cũng tham gia chiến đấu.
Trong 5 tháng đầu cuộc chiến, Đức chiếm thế áp đảo, trước khi vấp phải mùa đông khắc nghiệt cùng sự chống cự kiên cường của Hồng quân Liên Xô ở ngoại ô Moscow, khiến quân Đức sa lầy và chịu thất bại nặng nề ở Stalingrad.
Kursh là trận đấu tăng lớn nhất trong lịch sử. Ảnh: Wikipedia.
Trận Kursk năm 1943 đặt dấu chấm hết cho tham vọng tấn công Liên Xô của Đức. Giai đoạn 1943-1945 chứng kiến đà phản công từ Liên Xô với những trận đánh phi thường khiến Đức choáng váng. Đức và Liên Xô rơi vào cuộc chiến tiêu hao sinh lực, trong đó cả hai bên đều tổn thất về vũ khí trang bị và con người. Liên Xô nhận được sự hỗ trợ của phương Tây trong khi Đức dựa vào nguồn lực ở khu vực châu Âu bị chiếm đóng.
Cuộc chiến trên không
Cuộc chiến không cho phép sử dụng lực lượng ném bom chiến lược ở cả hai phía. Liên Xô phát động không kích vào các thành phố Đức trong những ngày đầu của cuộc chiến và hứng chịu tổn thất nặng nề. Ngược lại, không quân Đức tập trung cho nhiệm vụ hỗ trợ bộ binh. Đức cũng phát động tập kích đường không quy mô lớn vào các thành phố Liên Xô, nhưng không đạt được mục tiêu chiến lược.
Liên Xô có bước phát triển trong chiến tranh nhưng sự hiệu quả, đặc biệt trong chiến đấu cơ, vẫn không thể bằng Đức. Điều này diễn ra ngay cả khi ngành công nghiệp hàng không Liên Xô vượt xa Đức, cũng như các đợt ném bom hiệp đồng của quân Đồng minh kéo sự chú ý của không quân Đức về mặt trận phía Tây.
Cuộc chiến trên biển
Chiến tranh trên biển hiếm xảy ra ở mặt trận phía Đông. Tuy nhiên, Liên Xô và phe Trục vẫn giao tranh ở khu vực Bắc Cực, biển Baltic và Biển Đen trong suốt cuộc chiến.
Hải quân Liên Xô không có quá nhiều vai trò trong cuộc chiến. Ảnh: Wikipedia.
Ở phía bắc, lực lượng không quân và hải quân Liên Xô hỗ trợ biên đội tàu hộ tống phe Đồng minh đến cảng Murmansk, quấy rối các căn cứ Đức ở Na Uy. Ở Biển Đen, tàu chiến Đức và Romania giao tranh với Hạm đội Biển Đen của Liên Xô, giành được những thắng lợi quan trọng cho đến khi cục diện trên bộ đảo chiều.
Ở biển Baltic, tàu ngầm Nga và xuồng nhỏ phát động chiến tranh du kích chống Đức và Phần Lan trong ba năm đầu, dù Đức giành ưu thế hải quân mặt nước để hỗ trợ các cuộc lui binh trong năm cuối chiến tranh.
Cái giá phải trả
Thống kê sơ bộ cho thấy Liên Xô có khoảng 7 triệu quân nhân thiệt mạng trong chiến đấu, 3,6 triệu người khác chết trong trại tù binh Đức. Phía Đức mất 4 triệu quân và 370.000 tù binh thiệt mạng. Khoảng 600.000 binh sĩ từ các nước Đông Âu cũng bỏ mạng trong chiến dịch xâm lược Liên Xô của Hitler. Con số này chưa tính đến những người thiệt mạng trong cuộc chiến Đức - Ba Lan hay Nga - Phần Lan.
Người dân mắc kẹt trong vùng chiến sự bị ảnh hưởng nặng nề do chính sách chiếm đóng đáng sợ của Đức. Khoảng 15 triệu người dân Liên Xô được cho đã bị sát hại, 3 triệu người Ba Lan chết và khoảng 3 triệu người Do Thái ở Ba Lan cũng chung số phận. Phía Đức chịu thiệt hại khoảng 500.000 đến 2 triệu cư dân sau chiến tranh.
Dù còn nhiều tranh cãi về tổn thất trong cuộc chiến, rõ ràng mặt trận phía Đông vẫn là cuộc xung đột ác liệt nhất trong lịch sử loài người, đồng thời là đòn quyết định của Liên Xô nhằm vào Đức, khiến quân Đức hứng chịu thương vong nặng nhất trong Thế chiến II, chuyên gia quân sự Robert Farley nhận định.
Duy Sơn
Theo VNE
IS dùng vũ khí hoá học huỷ diệt của thế chiến 1 tấn công Mosul Ngày 18.10, giới chức Mỹ cho rằng tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) sẽ sử dụng vũ khí hóa học thô sơ để chống lại cuộc tấn công do Iraq dẫn đầu nhằm vào thành phố Mosul. Một quan chức Mỹ cho biết các lực lượng Mỹ đã bắt đầu thu thập thường xuyên các vỏ đạn để kiểm định về khả...