Vụ hai vợ chồng c.hết đ.uối ở Hà Nội: Tang thương ngày cuối năm
Không khí Tết đang rộn ràng khắp nơi nhưng trong căn nhà nhỏ thôn Thanh Thái, Sầm Sơn, Thanh Hóa nỗi đau mất người thân đang giày xéo con tim của những người làm cha, mẹ và cả những đứa con thơ.
Chiều cuối năm trong cái lạnh cắt da cùng với mưa phùn, đôi vợ chồng trẻ bị đuối nước là Nguyễn Văn Lượng (40 t.uổi) và Lường Thị Lý (38 t.uổi), đã được an táng tại quê nhà (thôn Thanh Thái, xã Quảng Cư, Thị xã Sầm Sơn,Thanh Hóa). Không khí tang thương bao trùm lên xóm nghèo những ngày giáp Tết.
Trong căn nhà 2 gian cấp bốn tuềnh toàng, rộng vài chục mét vuông, nằm sâu hun hút trong xóm chài nghèo ven biển, hai đ.ứa t.rẻ đầu chít khăn tang đôi mắt thẫn thờ, đau đớn.
Ánh mắt thất thần của hai đ.ứa t.rẻ khiến ai chứng kiến cũng đau lòng
Không có nghề nghiệp ổn định, cả 2 vợ chồng anh Lượng chị Lý quanh năm suốt tháng phải đi làm thuê, làm mướn để nuôi con, thế mà đói, nghèo cứ như “nghiệp” đeo bám họ.
Anh Lượng được ông chủ hồ sông Huê, phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai (Hà Nội) tin tưởng và thuê trông coi hồ cá. Nghề vá lưới thuê của chị Lý ngày càng bấp bênh, nên chị cũng bỏ nghề ra đó làm thuê cùng chồng. Hai con nhỏ (đứa lớn 12 t.uổi, đứa nhỏ 8 t.uổi) chị gửi lại cho ông bà ngoại. Hai vợ chồng vất vả làm lụng quanh năm, chắt chiu được đồng nào đều gửi về cho hai con ăn học.
Tết này, hai vợ chồng anh Lượng cũng muốn kiếm thêm ít t.iền sắm cho con bộ quần áo, miếng bánh cục kẹo nên dù đã khuya họ vẫn cố ra hồ vớt cá. Thế nhưng, bất hạnh thay sự cố gắng ấy lại chính là nguyên nhân cướp đi sinh mạng của họ.
Trong tiếng nấc khàn đặc, ông Lường Văn Thắng, nghẹn ngào cho biết, đã nhiều lần ông khuyên nhủ các con no đói gì cũng nên có một người ở quê để chăm sóc, dạy bảo con cái thế nhưng lo miếng cơm manh áo nên cả hai đã không nghe lời ông.
Nước đau người mẹ và những đứa con thơ
Rồi ông kể lại: “23h25′ ngày 23/1, đang ngủ thì bất ngờ nhận được điện thoại của anh Huân, chủ hồ cá mà 2 con tôi đang làm thuê. Anh Huân cho biết, vợ chồng thằng Lượng đ.ánh bắt cá ở trên hồ mà giờ chẳng thấy người và thuyền đâu, chỉ thấy mỗi đèn pin dạt vào bờ.
Với kinh nghiệm của người trong nghề sông nước, tôi đã linh cảm được sự chẳng lành nên liền đi báo với bên gia đình thông gia rồi cùng với một số người nữa đã thuê xe ra Hà Nội. Tôi chèo thuyền xuống hồ đi tìm con. Khoảng 11h trưa ngày 24/1 mới vớt được thằng Lượng, thì mãi đến 14h30′ mới tìm thấy t.hi t.hể của con Lý. Lúc đó, tôi ngã quỵ”.
Video đang HOT
Bà Hoàng Thị Tâm, mẹ của chị Lý đau xót cho biết hai vợ chồng anh Lượng ra đi đúng vào ngày sinh nhật con gái tròn 8 t.uổi. Trước đó, vợ chồng anh còn gọi điện về cho con hẹn sẽ làm sinh nhật cho con ngay khi họ trở về.
“Hôm đó nó con Lý còn gọi điện về hứa mua quà cho các con. Hai đứa nhỏ dù sống xa bố mẹ nhưng năm nào cũng được học sinh tiên tiến. Cháu nó nói chuyện với mẹ rồi háo hức đợi bố mẹ mang quà về, nhưng không ngờ…” Nói đến đó bà ôm hai đứa nhỏ vào lòng rồi gào khóc…
Trước đó, như đã đưa tin vụ c.hết đ.uối thương tâm xảy ra khoảng 20h ngày 23/1, tại đầm cá nằm sâu trong ngõ 44 phố Thúy Lĩnh (tổ 31, phường LĩnhNam, quận Hoàng Mai, Hà Nội).
Ngay sau khi phát hiện vụ việc, chủ đầm đã thuê đội thợ lặn tìm kiếm xác hai vợ chồng. Khoảng 10h sáng nay, 24/1, mọi người phát hiện xác anh Lượng nổi lên sát bờ. Đến 15h chiều cùng ngày, xác chị Lý mới được tìm thấy.
Nguyễn Thùy
Theo Dantri
Chuyện ở ngôi trường không có... giáo viên nữ
Để "cõng chữ" qua một con núi cao lên đến gần 1500m cho học trò phải là một kỳ tích, có lẽ cũng bởi thế mà 7 năm qua, ngôi trường phổ thông Cao Sơn (huyện Bá Thước, Thanh Hóa) chỉ có bước chân của những người thầy.
Nhọc nhằn "cõng chữ" lên non
Đã từng nghe chuyện kể về những người thầy ở ngôi trường Cao Sơn là những "người hùng hiện đại" thế nhưng chỉ khi vượt qua ngọn núi cao ngút ngàn bằng con đường mòn rộng chừng vài gang tay lởm chớm những khối đá nhô lên nhô xuống mới vào được với Cao Sơn (xã Lũng Cao, huyện Bá Thước, Thanh Hóa) thì tôi mới chợt hiểu người ta đã nói không sai.
Gọi là đường cho sang chứ thực ra chỉ là một vài lối mòn từng có bước chân con người qua lại. Một bên là vách núi, một bên là vực thẳm, chỉ cần sơ ý trượt chân có thể sẽ rơi xuống độ cao cả vài trăm mét. Bởi thế mà nhiều người lần đầu đến Cao Sơn rồi sợ đến mức không bao giờ dám quay lại nữa.
Gian nan đường đến Cao Sơn.
Già làng ở đây cho biết, ngày xưa nếu có việc phải xuống xã, họ phải đi bộ cả một ngày trời, còn bây giờ đã dễ đi hơn nhiều rồi nên cụ già và trẻ nhỏ nơi này chỉ biết đến Cao Sơn là cả một thế giới.
Nói như vậy để có thể hiểu phần nào nỗi nhọc nhằn với nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của những người thầy miền xuôi đã "cõng chữ" qua con núi ấy đến với học trò dân bản. Và cũng dễ hiểu vì sao ngôi trường phổ thông Cao Sơn từ khi thành lập cho đến bây giờ chưa hề có bước chân của một giáo viên nữ nào.
Trường phổ thông Cao Sơn được thành lập từ năm 2006 đến nay. Dường như biết nữ giới không thể đủ sức chinh phục ngọn núi cao chọc trời để đến với học trò ở một nơi "thâm sơn cùng cốc" như Son Bá Mười nên cũng không có giáo viên nữ nào được phân công lên đây công tác.
7 năm trôi qua, nhiều thầy ở lại, nhiều thầy cũng bỏ bản mà ra đi chỉ còn lại ở ngôi trường này 18 thầy giáo tâm huyết và kiên cường, ngày ngày cần mẫn, miệt mài gieo cấy những "mùa chữ" trên mảnh đất cao chọc trời với vô vàn những khó khăn, thiếu thốn.
Phải nói bao nhiêu con chữ mà các thầy truyền đến với học trò Cao Sơn là bấy nhiêu sự hy sinh. Nói như thế mà vẫn cảm thấy như ngôn từ chưa diễn tả hết được. Chỉ có đặt chân lên mảnh đất ấy, mới thấy hết được nỗi vất vả, gian truân mới thấy sự hy sinh của những thầy giáo nơi này là vô bờ.
Gặp các thầy, tôi cứ thắc mắc mãi về sức mạnh nào khiến các anh có thể leo qua ngọn núi ấy và ở lại cho đến bây giờ. Như đụng đến những tâm tư tình cảm mà những người trồng người trên mảnh đất này lâu nay cất giấu, ai cũng muốn dốc bầu tâm sự.
Khó khăn chồng chất khó khăn, các thầy vẫn bám trường, bám lớp mang chữ đến với học trò.
Thầy hiệu trưởng Trịnh Văn Dũng (quê Thọ Xuân, Thanh Hóa) đã gắn bó với ngôi trường từ khi bắt đầu dựng lên trường. Từ những ngày đầu mới tốt nghiệp, thầy đã gắn bó với mảnh đất, với ngôi trường và những học sinh nghèo vùng cao thế nhưng chỉ khi lên với Cao Sơn, thầy cũng mới thấy đây mới chính là khó khăn.
Với bao vui buồn, bao khó khăn nhưng khi được hỏi đã có giây phút nào thầy nản lòng mà muốn rời bỏ nơi này để ra đi không thì thầy cười rồi khẳng định chắc chắn rằng "chưa từng có ý nghĩ đầu hàng".
Thầy Dũng kể: "Năm đầu tiên lên đây, trường lớp làm gì được như bây giờ mà chỉ là những căn nhà dựng tạm bằng tranh tre nứa, giáo viên cũng phải dồn hết lại ở chung để nhường chỗ cho các cháu học. Đêm nằm cảm nhận rõ từng tiếng gió thốc vào trong. Mùa hè còn đỡ, mùa đông khí hậu ở Cao Sơn lúc nào cũng trung bình dưới 10 độ, có nhiều khi nhiệt độ chỉ còn 0 độ, đụng tay vào nước đã cảm nhận thấy đau rát thấu xương. Không những thế điện, nước, sóng điện thoại... tất cả đều không có. Đó là chưa kể đến việc những năm đầu tiên, học sinh chưa chịu đến trường đi học. Mỗi ngày các em lại đến ít đi".
Thức ăn trong này cũng thật là hiếm hoi, mỗi lần về dưới xuôi, các thầy lại chật vật cõng nào gạo, nào cá khô, tép khô... Đường đi đã khó, mang theo những đồ đoàn như vậy lại càng khó hơn. Có nhiều khi trời tối rồi mà vẫn chưa vào được đến trường, các thầy đành dùng gậy khua tìm đường, mò mẫm đi trong đêm.
Khó khăn chồng chất khó khăn là thế, nhưng khi hỏi động lực nào để các thầy có thể ở lại đương đầu với nó để mang con chữ đến với học trò thì các thầy cười bảo đó là "cơ duyên" rồi dần dần quen. Tôi thì đã không nghĩ vậy, phải có một trái tim đầy tình yêu và sự nhiệt huyết vô bờ với học trò nơi này mới có thể khiến các anh dũng cảm hy sinh. Và có lẽ giây phút nhìn thấy học sinh run bần bật, đầu trần, chân đất đến lớp, hình ảnh ấy khiến tình yêu thương xóa tan nỗi nhọc nhằn.
Không có điện, ban ngày các thầy phải tranh thủ soạn giáo án sau những giờ lên lớp.
Do đi lại khó khăn nên trước đây có khi mấy tháng các thầy mới về dưới xuôi một lần. Bây giờ các thầy bảo đường đã dễ đi hơn trước, đoạn từ chân núi lên cũng đang được làm nên có thể về xuôi nhiều hơn. Có một điều mà hầu hết các thầy đều tâm sự đó là ai ở trên này về cũng cần phải nói dối vì sợ những người thân của mình lo lắng.
Thầy Trần Ngọc Hải ngay từ khi ra trường đã được phân công về đây giảng dạy. Tâm sự về công việc của mình, anh trải lòng: "Bao nhiêu khó khăn là vậy thế nhưng mình và anh em ở đây khi về là trút bỏ hết những suy nghĩ, những mệt mỏi ở trường. Không bao giờ phàn nàn với bố mẹ hay vợ con nơi mình công tác khổ ra sao, vất vả thế nào. Lần nào cũng vội vã trở về rồi lại vỗi vã lên đường. Thời gian trên đường nhiều hơn thời gian ở nhà".
Tình yêu dân bản
Không chỉ gieo chữ cho học trò, các thầy ở ngôi trường Cao Sơn này còn có nhiều nhiệm vụ hơn thế. Nếu trong làng có công việc gì lớn như đám cưới, đám ma, dựng nhà... các thầy lại là những nhân vật không thể thiếu.
Mùa màng đến, sau những giờ lên lớp, các thầy lại vào bản làm giúp bà con. Yêu thương các thầy, những năm gần đây học sinh đã không còn bỏ học. Trường lớp càng ngày càng đông học sinh hơn, không còn chuyện phải đi vận động như năm đầu tiên dựng trường.
Các thầy phân công nhau để chuẩn bị bữa ăn.
7 năm đương đầu với nhiều khó khăn thử thách tưởng như khó lòng vượt qua, các thầy đã càng thêm gắn bó với mảnh đất như là m.áu thịt của mình. Hơn 30 năm làm nghề Sư phạm, thầy Vi Văn Hoan (54 t.uổi) đã chứng kiến nhiều đồng nghiệp cùng thế hệ không chịu được gian khổ, khó khăn nên phải bỏ nghề. Gắn bó với Cao Sơn gần chục năm, mái đầu thầy đã hoa râm, đôi bàn tay chai sạn vì chống gậy băng rừng. T.uổi cao, nhiều lần thầy Hoan định xin chuyển công tác nhưng rồi như có một sự níu kéo nào đó không định nghĩa nổi, thầy vẫn ở lại. Nấn ná mãi thầy bảo thôi thì vài năm nữa đến t.uổi nghỉ hưu thì về luôn.
Ngôi trường phổ thông Cao Sơn nằm sau những dãy núi cao chọc trời.
Một buổi chiều cuối năm trong tiết trời lạnh cắt da nơi mảnh đất mù sương này, tôi vẫn cảm nhận thấy có ánh lửa ấm áp trong mắt của các thầy khi bước trên bục giảng. Ánh mắt ấy khiến chúng tôi hiểu vì sao các anh đã cống hiến cả t.uổi trẻ cho nghiệp nhọc nhằn cõng chữ lên non...
Nguyễn Thùy
Theo Dantri
Mật mía “cháy hàng” ngày cận Tết Những ngày cận Tết, các lò làm mật mía ở Thanh Hóa chạy đua với thời gian nhưng vẫn không đủ hàng cung ứng cho thị trường. Năm nào cũng vậy, cứ khoảng từ 23 tháng Chạp, tình trạng "cháy hàng" liên tục diễn ra. Mật mía là một loại nguyên liệu không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền đối với người...