Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ 6)
Các nghi can được đánh số để nạn nhân nhận diện.
Vụ án đã thu hút được sự quan tâm của Hiệp hội Dân quyền để giải quyết vấn đề pháp lý.
Ernest Miranda phải ngồi sau song sắt ít nhất 2 năm tại nhà tù an ninh bậc nhất gần Florence, Arizone mà không biết rằng vụ án của mình sau này sẽ có vai trò lịch sử trong việc thay đổi luật. Tất cả những gì anh biết là muốn ra khỏi nhà tù Florence mà nguyên nhân là hệ thống pháp lý Arizone đã sai. Như một gã ăn mày, Ernest gửi đơn xin xem xét lại vụ án của mình tới tòa án tối cao Hoa Kỳ vào tháng 6/1965.
Ở bên ngoài những bức tường của nhà tù bang Arizona, vụ án của Ernest Miranda đã thu hút được sự quan tâm của một tổ chức khá quan trọng: Hiệp hội Dân quyền Hoa Kỳ (The American Civil Liberties Union, viết tắt: ACLU). Hội này đang tìm kiếm quyền để đưa lên Tòa án tối cao Hoa Kỳ phân loại trường hợp Escobedo. Chính Hiệp hội Dân quyền cũng đóng vai trò tích cực trong vụ Escobedo và trong nhiều phiên tòa phúc thẩm khác có dựa trên vụ án này. Nhưng cũng vì thế các phiên tòa liên bang gặp nhiều mâu thuẫn liên quan tới việc nên cho nghi can gặp luật sư vào lúc nào.
Viên giám đốc của hiệp hội liên hệ gặp luật sư Alvin Moore nếu ông này sẵn sàng đưa vụ án lên tới tòa án tối cao, dĩ nhiên là với sự trợ giúp của ACLU. Luật sư Moore, lúc này đang đau buồn vì thất bại trong việc bào chữa cho bị cáo mà ông biết là vô tội, nhưng ông lại không thể nhận lời vì sức khỏe giảm sút.
John J. Flynn, một luật sư có uy tín trong các vụ bào chữa án hình sự, thành viên của một trong những hãng luật lớn nhất Phoenix đã nhận lời thay Moore đảm nhận vụ này. Dù đã có sự trợ giúp của ACLU nhưng vì đây là vụ án quan trọng, lại lên tới tòa án tối cao nên John mời cả John P. Frank trợ giúp cho mình.
Cả hai cũng đều biết sự thật về bản lý lịch không mấy tốt đẹp của thân chủ. Ernest Miranda đã từng là một công dân có nhiều tiền án tiền sự với tội cưỡng hiếp và bắt cóc. Frank biết quan trọng việc Ernest có tội hay không nhưng thay vào đó là tập trung vào những vấn đề liên quan tới Hiến pháp mà tòa án tối cao sẽ phải giải quyết.
“Cho tới lúc nhận lời, tôi cũng chưa biết thực sự Miranda có tội cưỡng hiếp hay không. Nhưng cho dù anh ta làm gì đó, tôi không biết hành động đó có bị làm trầm trọng hơn không bởi quy trình điều tra và thẩm vấn.” Frank sau này cho biết.
Video đang HOT
Khi Flynn và Frank ngồi cùng nhau để bàn bạc, họ không đồng ý với khía cạnh của Tuyên Ngôn Nhân Quyền mà bình thường các luật sư hay dựa vào đó để lập luận. Vụ án của Enrnest hợp với bản Tu chính án thứ 5 (phần thêm vào một đạo luật/Hiến pháp) để tránh bị ép phải nhận tội, hoặc hợp với bản Tu chính án thứ 6 nói về quyền có luật sư hỗ trợ. Frank tranh luận về bản Tu chính án thứ 6 còn Flynn sẽ là công tố viên điều tra những thủ thuật mà cảnh sát sử dụng để có được bản nhận tội của Ernest vì ông tin rằng cảnh sát đã vi phạm Tu chính án thứ 5.
Tòa án tối cao Arizone đã coi vụ Escobedo như là lời chỉ dẫn cho tất cả các mục đích thực tế rằng việc bảo vệ Tu chính án thứ 6 không phù hợp cho những người không nhận thức được quyền của họ hoặc quá đe dọa tới mức họ không cần yêu cầu giúp đỡ của luật sư.
Câu hỏi mà tòa án cần quyết định là liệu một nghi can có cần biết quyền của anh ta được phép yêu cầu luật sư hay không? Hoặc liệu cảnh sát có phải thông báo quyền căn bản này hay không? Đó là vấn đề 2 luật sư quyết định sẽ phải làm rõ.
Qua mùa hè năm 1965, các tòa án tối cao liên tục nhận được những kháng cáo từ phía những người đã ngã xuống đầm lầy Escobedo. Rõ ràng điều cần phải làm là nhanh chóng giải quyết những vấn đề pháp lý đang phát sinh ngày càng lớn.
Tháng 11/1965, 1 cuộc thảo luận diễn ra căng thẳng trong cả ngày trời giữ 9 viên thẩm phán cấp cao. Quyết định phải được đưa ra để trả lời cho những vấn đề pháp lý mà vụ Escobedo đã đặt ra. 9 vị này đã chọn vụ án của Ernest Miranda để xem xét. 4 vụ án khác xảy ra tương tự với vụ án đó cũng được gộp lại để tranh luận trong ngày hôm đó.
Theo 24h
Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ 5)
Theo lời khai của Patrice, cô chống lại kẻ hãm hiếp mình nhưng trên người nạn nhân không hề có dấu hiệu xây xước (ảnh minh họa)
Những tranh cãi quyết liệt về pháp lý không có hồi kết giữa các phiên tòa.
Những bất đồng và tranh cãi
Luật sư Moore phản đối việc sử dụng bản tự thú của Ernest làm bằng chứng trước tòa vì trước và đang khi nhận tội và viết ra bản này, nghi can không được gặp luật sư bào chữa.
Để bảo vệ cho việc phản đối của mình, luật sư cao tuổi này đã đề cập tới một vụ án trước đó. Trước đó, Thẩm phán Gideon v. Wainwright trong một phiên tòa đã không chấp nhận việc bị cáo không có luật sư bào chữa khi bị bắt giữ và thẩm vấn mà ông yêu cầu người bị bắt giữ phải được có luật sư bào chữa trong suốt quá trình từ khi bắt giữ, thẩm vấn tới các phiên xét xử.
Tuy nhiên, thẩm phán tối cao Yale McFate đã không chấp nhận phản đối của Moore và cho phép bản nhận tội đó được đọc trước bồi thẩm đoàn.
Dầu vậy, trong suốt phiên xử, thẩm phán McFate nhấn mạnh rằng dù ông chấp nhận sử dụng bản nhận tội này là bằng chứng trước tòa nhưng các thành viên bồi thẩm đoàn có thể bác bỏ bằng chứng này nếu họ thấy bị cáo bị cưỡng chế viết.
Bồi thẩm đoàn phải mất rất lâu để quyết định. 2 tuần sau, Ernest cũng bị kết án có tội bắt cóc và hiếp dâm và phải lĩnh mức án 30 năm tù.
Kháng cáo
Luật sư Moore tin rằng thẩm phán McFate đã phạm sai lầm khi cho phép sử dụng bản nhận tội này làm bằng chứng tại tòa. Ông cho rằng nếu không vì tờ giấy bị cáo bị ép buộc phải viết đó, mọi chuyện đã hoàn toàn khác. Mọi yếu tố và diễn biến của vụ án không được thực hiện đúng. Đặc biệt, khi vị luật sư bào chữa này yêu cầu nạn nhân của vụ hãm hiếp diễn tả lại những hành động chống lại thủ phạm lúc đó, hoặc có dấu vết gì thể hiện việc chống cự hay không thì cô gái này lại không nói rõ được.
Luật sư Alvin Moore đã ngay lập tức làm đơn kháng cáo lên tòa án tối cao Arizona.
"Liệu bản nhận tội của Ernest là do anh tự do viết hay bị ép buộc?" Câu hỏi này luôn khiến viên luật sư tận tâm và vô vị lợi này đau đầu. Đặc biệt, bị cáo đã được bắt giữ, thẩm tra và ghi nhận lời khai có đúng quy trình và thủ tục hay không? Anh có được hưởng các quyền do Hiến pháp Hoa Kỳ quy định hay hoàn toàn bị sự chủ quan của 1 số cảnh sát chi phối vì Ernest có sơ yếu lý lịch không mấy tốt đẹp từ khi mồ côi mẹ và bỏ nhà đi lang thang.
Năm 1965, tòa án tối cao Arizona đưa ra xem xét bản kháng cáo vụ án hiếp dâm của Ernest Miranda và cân nhắc lại quyền của những bị cáo trong quá trình điều tra và xét xử. Luật sư Moore đã khẳng định rằng một nghi can phải có quyền có luật sư khi bị cảnh sát thẩm vấn như trong vụ án Escobedo xảy ra trước đó. Trong vụ án Escobedo, tòa đã phán quyết rằng việc cảnh sát không còn tiếp tục điều tra về một vụ án chưa giải quyết được, lại tập trung vào một nghi can cụ thể, từ chối không cho phép nghi can mời luật sư và không giải thích rõ cho bị can biết quyền được giữ im lặng thì cảnh sát đã vi phạm đạo luật số 6.
Tuy nhiên, sau 18 tháng xét xử, tòa án tối cao Arizona vẫn đồng ý với bản án sơ thẩm, tuyên Ernest Miranda có tội bắt cóc và hiếp dâm.
Phiên phúc thẩm này đã chỉ trích những quyết định của vụ án Escobedo như sau dù vẫn tuyên phạt như án sơ thẩm:
- Một cuộc điều tra chỉ tập trung vào một nghi phạm cụ thể
- Nghi phạm đang bị giam giữ
- Nghi phạm đã yêu cầu nhưng bị từ chối gặp luật sư
- Nghi phạm không được thông báo một cách hiệu quả về quyền được giữ im lặng của mình.
Chính cựu thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, thống đốc tiểu bang Arizona là Ernest W. McFarland đã tập trung vào quyết định của mình dựa trên thực tế rằng Miranda đã không yêu cầu luật sư trong suốt thời gian bị bắt giam và vì thế không được hưởng sự bảo vệ như ở vụ Escobedo. Ông tin rằng Ernest Miranda đã viết bản nhận tội hoàn toàn tự nguyện và các phiên tòa trước đã không phạm sai lầm gì khi sử dụng bản nhận tội đó làm bằng chứng.
Cảnh sát cũng đã hành động đúng khi lập luận rằng sau những lần phạm tội, bị bắt và bị án tù, Ernest Miranda đã hiểu được những quyền cần thiết và cơ bản của mình. Vì thế, lần này tuy cảnh sát bỏ qua không thông báo cho anh này biết quyền và không làm theo quy trình nhưng những yếu tố đó không làm thay đổi bản chất của vụ án.
Vậy là cấp sơ thẩm và phúc thẩm trong vụ án này trái ngược với quyết định của phiên tòa Escobedo trước đó. Không chỉ có những quyết định khác nhau giữa các phiên tòa cấp liên bang nhưng còn có sự bất đồng giữa các phiên tòa cấp tiểu bang. Rõ ràng là tòa án tối cao phải xem lại vụ Escobedo để làm rõ tình hình.
Theo 24h
Vụ án oan làm đổi luật nước Mỹ (Kỳ 4) Quy trình thẩm vấn có nhiều sai sót và mang màu sắc chủ quan của cảnh sát. Quy trình thẩm vấn có nhiều vấn đề Ngay sau khi đưa nghi can về trụ sở, 2 thám tử Cooley và Young đã xếp Ernest ngồi cùng hàng với 3 người Mỹ gốc Mexico khác. 3 người này vừa là cùng nguồn gốc, vừa có...