Vụ án Nguyễn Thị Thanh Nhàn sẽ thi hành án ra sao?
TAND TP Hà Nội đã xét xử sơ thẩm vắng mặt bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn và tuyên phạt bị cáo này 30 năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” và tội “Đưa hối lộ”.
Điều dư luận quan tâm là khi bản án có hiệu lực pháp luật, việc thi hành án được thực hiện ra sao.
Theo kế hoạch, ngày 22/5, TAND cấp cao tại Hà Nội sẽ mở phiên tòa hình sự phúc thẩm xét xử vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, “Đưa hối lộ”, “Nhận hối lộ”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (viết tắt là Công ty AIC) và các đơn vị liên quan.
Phiên tòa phúc thẩm được mở để xem xét đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (cựu Chủ tịch HĐQT Công ty AIC). Ngoài bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn, 14 bị cáo khác cũng có đơn kháng cáo. Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND TP Hà Nội đã xét xử vắng mặt bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn và tuyên phạt bị cáo này 16 năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, 14 năm tù về tội “Đưa hối lộ”. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn phải chấp hành mức án chung cả hai tội danh là 30 năm tù.
Sau phiên tòa sơ thẩm, luật sư của bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn kháng cáo thay bị cáo nội dung sau: Quá trình điều tra chưa đầy đủ, chưa chứng minh được việc bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn là chủ mưu trong việc thông thầu.
Hiện, bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn vẫn đang bỏ trốn. Ngày 10/5/2022, Cơ quan CSĐT Bộ Công an ra quyết định truy nã toàn quốc và truy nã quốc tế đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn. Điều dư luận quan tâm là khi bản án có hiệu lực pháp luật, việc thi hành án được thực hiện ra sao?
Các bị cáo trong vụ án Nguyễn Thị Thanh Nhàn tại phiên tòa sơ thẩm.
Video đang HOT
Theo luật sư Lê Hồng Vân (Đoàn Luật sư TP Hà Nội), sau khi xét xử xong, bản án sẽ được thi hành để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Về việc thu hồi tiền, tài sản thất thoát trong vụ án này, theo kết quả xét xử sơ thẩm, nhiều tài sản của các bị cáo đã bị kê biên, phong tỏa. Một số bị cáo đã chủ động nộp lại khoản tiền thu lợi bất chính nên sau khi bản án có hiệu lực, việc xử lý tài sản để thi hành án không có trở ngại lớn.
Về việc thi hành phần hình phạt đối với các bị cáo, theo quy định tại khoản 4, điều 23 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, người chấp hành án phải có mặt tại trụ sở cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu được chỉ định trong quyết định thi hành án. Quá thời hạn này mà người đó không có mặt, Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp hoặc Vệ binh hỗ trợ tư pháp thực hiện áp giải thi hành án.
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại bỏ trốn thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu ra quyết định truy nã và tổ chức truy bắt…
Trường hợp bắt được thì áp dụng các quy định về thi hành án hình sự, thời điểm bắt đầu tính chấp hành hình phạt tù kể từ ngày thi hành quyết định của cơ quan thi hành án hình sự.
Khoản 2, Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng nêu rõ, tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt trong các trường hợp bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả; bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Cũng theo luật sư Lê Hồng Vân, nếu xét xử trong những trường hợp trên, việc thi hành bản án có hiệu lực pháp luật sau khi được tuyên sẽ có những quy định cụ thể.
Đối với bị cáo bị truy nã mà việc truy nã không có kết quả, không biết bị cáo đang ở đâu, thì khi nào bắt được bị cáo hoặc bị cáo đầu thú sẽ phải thi hành bản án mà tòa án đã tuyên.
Đối với bị cáo đang ở nước ngoài, không thể triệu tập đến phiên tòa, bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp thuận, nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo này không chấp hành thì trường hợp này sẽ bị dẫn độ theo quy định của Luật Tương trợ tư pháp.
Vụ AIC: Thân chủ đang bỏ trốn, Luật sư kháng cáo thay có trái luật?
Về vụ án tại Công ty AIC, luật sư của bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Vậy theo quy định, việc luật sư kháng cáo thay bị cáo đang bỏ trốn có đúng luật?
Được biết, sau gần 1 tháng tuyên án bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty AIC) và 35 bị cáo trong vụ án Công ty AIC vi phạm đấu thầu tại dự án Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, TAND Thành phố Hà Nội đã nhận được đơn kháng cáo của 16 bị cáo và Công ty AIC.
Luật sư của bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, cho rằng chưa đủ căn cứ chứng minh bị cáo Nhàn là chủ mưu, chỉ đạo việc thông thầu, việc định giá thiệt hại là quá cao.
Theo bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên, có 8 đối tượng đang bỏ trốn, gồm: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch Công ty AIC) bị tòa tuyên phạt 30 năm tù; Trần Mạnh Hà (Phó tổng giám đốc AIC) 25 năm tù; Đỗ Văn Sơn (cựu Kế toán trưởng AIC) 6 năm; Nguyễn Thị Sen (cựu giám đốc Công ty CP Thiết bị y tế và môi trường) 30 tháng tù; Nguyễn Thị Tích (Tổng giám đốc Công ty MOPHA) 4 năm; Đỗ Mỹ Hạnh (Chủ tịch HĐQT Công ty Cát Vân Sa) 5 năm tù và Ngô Thế Vinh (Giám đốc Công ty Nha khoa Việt Tiên) bị tuyên 4 năm tù về các tội cho hai tội "Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng", "Đưa hối lộ".
Nguyễn Thị Thanh Nhàn - cựu Chủ tịch AIC và các bị cáo trong vụ án thông thầu
Trước khi diễn ra phiên tòa, Bộ Công an đã yêu cầu những người đang bỏ trốn ra đầu thú để hưởng khoan hồng và thực hiện quyền tự bào chữa. Song đến ngày xét xử, các đối tượng này vẫn 'lặn mất tăm' nên tòa án đã chỉ định các luật sư bào chữa khi xét xử vắng mặt.
Về việc luật sư chỉ định gửi đơn kháng cáo cho các bị cáo đang bỏ trốn, dưới góc độ pháp lý, luật sư Lê Hồng Vân - Đoàn Luật sư Hà Nội cho biết, kháng cáo hình sự là quyền của bị hại, bị cáo, đương sự theo quy định của pháp luật đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật khi nhận thấy bản án quyết định chưa đảm bảo đúng quyền lợi của họ.
Điều 73 Bộ luật TTHS 2015 quy định, ngoài bị hại, bị cáo thì người đại diện bị can, bị cáo, người bào chữa bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa,... đều có quyền kháng cáo đối với bản án quyết định, bản án trong vụ án hình sự.
Song, người bào chữa chỉ được kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Việc các luật sư làm đơn kháng cáo thay cho những đối tượng đang bỏ trốn là không phù hợp.
Bên cạnh đó, theo Điều 331 BLHS 2015, người có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm gồm bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm; người bào chữa chỉ có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích cho người dưới 18 tuổi, người không đủ năng lực nhận thức hành vi mà mình bào chữa...
Với Bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên các bị cáo trong vụ Công ty AIC "thông thầu", sau khi niêm yết, trong thời hạn luật định, quyền kháng cáo thuộc về các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, luật sư không được làm thay - luật sư Hồng Vân nhấn mạnh.
Vụ án AIC: Sai phạm của cựu Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Nai ở mức độ nào ? Sáng 26/12, TAND TP Hà Nội tiếp tục điều hành phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (viết tắt là Công ty AIC) và những đơn vị liên quan. Sang ngày làm việc thứ 5, các luật sư đưa ra các luận cứ để bào chữa cho thân chủ...