Vụ án Nguyễn Thanh Chấn: Dư luận sẽ nghi ngờ vì sao bà Hà xuất hiện?
Đó là chia sẻ của Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp (Đoàn Luật sư Tp Hà Nội), về phiên tòa xét xử Lý Nguyễn Chung liên quan đến vụ án oan ông Nguyễn Thanh Chấn.
Dưới đây là nội dung bài viết chia sẻ của Luật sư Đặng Văn Cường gửi đến Báo.
Theo như thông tin mới đây thì ngày 23.7, TAND tỉnh Bắc Giang đã tuyên án vụ giế.t ngườ.i tại thôn Me (xã Nghĩa Trung, H.Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) có liên quan tới án oan hơn 10 năm tù của ông Nguyễn Thanh Chấn. HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Lý Nguyễn Chung (27 tuổ.i, ngụ tại xã Eaka Mút, H.Eakar, tỉnh Đắk Lắk) mức án 12 năm tù về 2 tội giế.t ngườ.i và cướp tài sản. Đáng chú ý, mặc dù bị cáo Chung nhận tội, nhưng tại phiên xét xử sơ thẩm, HĐXX xác định vụ án còn nhiều tình tiết chưa làm rõ như đôi dép Chung khai nhận khi đi vào nhà chị Hoan gây án vẫn chưa được thu giữ. Bộ quần áo màu nâu mà bị cáo mặc khi gây án có dính má.u cũng biến mất, hiện vẫn chưa tìm ra. Vết màu nâu dính trên cánh cửa phía sau của nhà bị hại cũng chưa xác định được. Vân tay in trên vỏ chai bia để lại hiện trường vẫn chưa làm rõ được. Con dao mà ông Chúc đưa cho con mang tới cơ quan điều tra không phải là hun.g kh.í gây án…
Cũng theo HĐXX, sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung, tòa có nhận được đơn của bà Nguyễn Thị Thu Hà (53 tuổ.i, ngụ xã Song Mai, TP.Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang – nhâ.n chứn.g mới vụ án). Tại phiên xét xử sơ thẩm, những tình tiết, căn cứ của bà Hà trình bày mâu thuẫn với một số nhâ.n chứn.g, cũng như lờ.i kha.i của bị cáo Chung về chiếc nhẫn. Do vậy HĐXX xét thấy cần kiến nghị cơ quan điều tra tiến hành điều tra xác minh mở rộng vụ án, tránh để oan sai, bỏ lọt tội phạm. Như vậy, có thể thấy kết quả vụ án chưa làm vụ án kết thúc khiến nhiều người trong cuộc bức xúc và dư luận không khỏi nghi ngờ. Nếu kết quả vụ án này dừng lại như nội dung mà bản án sơ thẩm vừa tuyên thì ông Chấn vẫn còn bị nghi ngờ là đồng phạm với Chung, nghi ngờ vào việc tiêu cực xã hội, nhiều người sẽ hoài nghi về công lý. Vì vậy, theo cá nhân tôi thì vụ án Lý Nguyễn Chung phải làm sáng tỏ tất cả các tình tiết, chứng cứ để xác định tội danh áp dụng với Lý Nguyễn Chung và phải xác định rõ là có đồng phạm khác hay không thì mới kết thúc được vụ án này. Có những vụ án có đồng phạm khác nhưng không thể xử lý được luôn mà phải tách rút tài liệu để điều tra, xử lý sau cho đảm bảo thời hạn tố tụng đối với các bị cáo đã có căn cứ rõ ràng xác định là đã thực hiện hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, trong vụ án này tòa án sơ thẩm lại tuyên mở rộng điều tra về những chứng cứ chưa được làm rõ là không hợp lý.
Điều 3, Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27 tháng 8 năm 2010 thì một trong các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung là: “Căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác
1. “Có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 của BLTTHS khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
b) Ngoài tội phạm đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội khác;
Video đang HOT
c) Ngoài bị can (bị cáo) đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố bị can.”
Ngày trở về của ông Nguyễn Thanh Chấn (Ảnh Thể thao văn hóa)
Ngoài ra, Điều 1 của Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT cũng quy định: Nếu thiếu những chứng cứ quan trọng sau đây thì tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung: “a) Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính…);
b) Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;
c) Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
d) Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự;”.
Trong vụ án này, tòa án cấp sơ thẩm xác định có nhiều tình tiết chưa được làm rõ nhưng vẫn tuyên án và tuyên về việc mở rộng điều tra để làm rõ một số tình tiết, chứng cứ quan trọng của vụ án là không phù hợp với quy định pháp luật nêu trên và khiến vụ án không được giải quyết triệt để, không đảm bảo mục đích, ý nghĩa của hình phạt và giảm tính răn đe, cũng có thể dẫn đến một vụ án oan hoặc bỏ lọt tội phạm.
Căn cứ vào quy định pháp luật kể trên, có thể nói vụ án có nhiều điều bất thường và bất ngờ. Từ việc Lý Nguyễn Chung nhận tội đến việc bà Hà đứng ra làm chứng để “phản pháo” lời nhận tội của Chung, đồng thời quy kết trách nhiệm cho ông Chấn. Bà Hà đưa ra 14 lập luận để “kết tội” ông Chấn trong vụ án trên và t.ố cá.o những hành vi “tiêu cực” của ông Chấn. Người làm chứng hăng hái “buộ.c tộ.i” ông Chấn như một “công tố viên” tại phiên tòa cũng là điều khá bất ngờ trong vụ án hình sự. Tôi không trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án này nên chưa thể có đán.h giá chính xác đối với những căn cứ mà bà Hà đưa ra. Những luận điểm này cần làm rõ thông qua hồ sơ vụ án của ông Chấn và hồ sơ trong vụ án Lý Nguyễn Chung.
Tuy nhiên, qua thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng thì có thể thấy hầu hết là những vấn đề mang tính chất suy luận, thiếu căn cứ, tuy nhiên cũng có những nội dung cần phải làm rõ để lý giải căn cứ kết tội đối với Chung và xác định rõ là có đồng phạm hay không. Ví dụ: Vết vân tay in trên vỏ chai bia xuất hiện trên hiện trường có thể là do người khác mang đến trước hoặc sau khi nạ.n nhâ.n chế.t. Chai bia đó không tất yếu dẫn đến hành vi phạm tội. Nếu thấy nghi ngờ vân tay của ông Chấn thì cơ quan điều tra hoàn toàn có thể xác minh nội dung này. Còn vỏ chai bia nào chả có vân tay, quan trọng là căn cứ nào xác định hun.g th.ủ cứ phải uống bia vào mới thực hiện được hành vi phạm tội? Đối với vết má.u trên hiện trường, trước tiên phải xác định có phải là má.u của nạ.n nhâ.n không? Nếu không phải má.u của nạ.n nhâ.n thì có giám định được má.u đó la của ông Chấn hay của Chung. Cũng có thể vết má.u đó là của người khác xảy ra trước hoặc sau khi á.n mạn.g. Vết má.u đó cũng không phải là chứng cứ quan trọng quyết định người thực hiện hành vi phạm tội. Vụ án xảy ra quá lâu, việc tìm đôi dép, quần áo của hun.g th.ủ là không có tính khả thi.
Một điều cũng cần lưu ý là Chung thực hiện hành vi phạm tội khi rất ít tuổ.i nhưng là người lao động chân tay nên sức khỏe và tầm vóc sẽ hơn hẳn những “thư sinh trói gà không chặt” vì vậy hoàn toàn có thể thực hiện hành vi phạm tội.
Ngoài ra, Chung không được học hành nhiều và cũng ít hiểu biết nên việc nhớ từng chi tiết, chứng cứ của một vụ việc đã diễn ra hàng chục năm, khi đang là trẻ con là không dễ dàng… Vì vậy, nếu kết tội Lý Nguyễn Chung về hành vi giế.t ngườ.i thì Tòa án cần có những lập luận, lý giải một cách khách quan, khoa học với tất cả các “cáo buộc” của người làm chứng.
Mặt khác, tình tiết HĐXX hỏi nguồn gốc bản sao lá đơn nhận tội của ông Chấn do bà Hà gửi đến tòa thể hiện sự thiếu khách quan của chứng cứ mà người làm chứng cung cấp khiến dư luận có thể nghi ngờ người làm chứng này một ai đó dựng lên để làm nhiễu loạn thông tin, lạc hướng dư luận? Dư luận sẽ nghi ngờ, nếu những điều cần làm rõ không được làm rõ. Cũng cần phải truy tìm căn nguyên và xác định xem có việc cố ý bịa chuyện gian dối hay không? Nếu cố tình bịa chuyện, khai báo gian dối thì người này sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Tuy nhiên, nếu theo kết luận của bản án sơ thẩm thì chưa giải quyết triệt để vụ án này, tòa án chưa phán quyết đúng sai đối với những nghi ngờ mà người làm chứng đưa ra, chưa xác định được người làm chứng có gian dối hay không. Việc này, có lẽ sẽ là trách nhiệm của tòa án cấp phúc thẩm. Những vấn đề mà người làm chứng nêu ra thì tòa án phải làm rõ để giải quyết vụ án cho triệt để chứ không thể phán quyết nửa chừng như vậy.
Theo Infonet
455 bị cáo được Toà cấp sơ thẩm cho hưởng án treo sai luật
Trong 3 năm (2011-2014), công tác xét xử còn để xảy ra những thiếu sót, sai phạm trong áp dụng, quyết định hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo; xảy ra 01 trường hợp kết án oan người vô tội...
Theo kết quả giám sát về "Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự (TTHS) và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật" của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), trong 3 năm (2011 - 2014), có 1.653 bị cáo bị cấp phúc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại, trong đó, chưa đủ căn cứ kết tội 629 bị cáo, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội 186 bị cáo, sai tội danh 110 bị cáo, áp dụng hình phạt không đúng 190 bị cáo.
Có một số trường hợp có đủ căn cứ kết tội bị cáo, nhưng Toà án (TA) cấp sơ thẩm lại tuyên bị cáo không phạm tội. Trong kỳ, có 11 bị cáo, TA cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội, nhưng TA cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm xét xử theo hướng có tội. Trong số 47 bị cáo TA sơ thẩm tuyên không phạm tội thì 43 trường hợp bị kháng nghị phúc thẩm, trong đó 32 trường hợp TA cấp phúc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại và tuyên 14 bị cáo có tội. TA cấp phúc thẩm sửa tội danh 228 bị cáo; một số địa phương tỷ lệ này khá cao. Điển hình như: Tại Bình Phước, có 41 vụ bị TA cấp phúc thẩm hủy để điều tra, xét xử lại, trong đó cấp tỉnh 04 vụ, cấp huyện 37 vụ; 06 vụ sai tội danh, 24 vụ vi phạm tố tụng...; chưa đủ căn cứ để kết tội bị cáo 04 vụ. VKS kháng nghị phúc thẩm 100 vụ/163 bị cáo, đã xét xử 78 vụ/115 bị cáo, trong đó TA cấp phúc thẩm đã chấp nhận 58 vụ/ 89 bị cáo.
Một số bản án, quyết định của TA còn xác định sai khung hình phạt, áp dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 46 và Điều 48 Bộ luật Hình sự (BLHS) về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Có trường hợp TA áp dụng hình phạt quá nặng, không phù hợp với chính sách hình sự trong BLHS. Điển hình như vụ Vũ Văn Thành cùng đồng phạm (ở Tiên Lãng, Hải Phòng) đều là học sinh, cướp giật tài sản giá trị nhỏ nhặt (01 chiếc mũ trị giá 30.000 đồng, 01 chiếc nón lá trị giá 60.000 đồng) bị TA hai cấp ở Hải Phòng tuyên phạt tù các bị cáo tổng cộng 92 tháng về tội cướp giật tài sản. Vụ án này đã bị TA cấp giám đốc thẩm hủy án để xét xử lại và sau đó, hầu hết các bị cáo được hưởng án treo. Ngược lại, có những trường hợp quyết định hình phạt quá nhẹ hoặc cho hưởng án treo không đúng pháp luật đối với bị cáo phạm tội về kinh tế, chức vụ, tham nhũng (như vụ Nguyễn Đại Tuyên ở Quảng Bình tham ô gần 96 triệu đồng và gây thất thoát 212 triệu đồng được hưởng án treo).
Đáng chú ý, có 455 bị cáo được TA cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, sau đó bị TA cấp phúc thẩm chuyển sang hình phạt tù do vi phạm các điều kiện về án treo quy định tại Điều 60 BLHS quy định về án treo; ấn định thời gian thử thách trái với hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; không giao bị cáo được hưởng án treo cho chính quyền địa phương nào giám sát giáo dục... Một số trường hợp, cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm để giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo thiếu căn cứ, nhất là đối với các vụ án về kinh tế, chức vụ, tham nhũng.
Bên cạnh đó, việc xem xét, giải quyết đơn giám đốc thẩm còn chậm, trong đó có phần trách nhiệm của VKS. Đáng lưu ý, có những trường hợp để quá lâu như: Vụ Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang) bị oan xảy ra cách đây 10 năm. Mặc dù trong nhiều năm,Nguyễn Thanh Chấn và gia đình liên tục gửi đơn kêu oan nhưng chỉ khi hun.g th.ủ Lý Nguyễn Chung ra đầu thú năm 2014 thì vụ án này mới được xem xét theo trình tự tái thẩm (thực chất là giám đốc thẩm), hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại.
Theo đán.h giá của UBTVQH, nguyên nhân dẫn đến các trường hợp oan, sai thuộc trách nhiệm TA chủ yếu do trình độ, năng lực của một bộ phận Thẩm phán còn hạn chế. Quá trình chuẩn bị xét xử, một số Thẩm phán không nghiên cứu kỹ hồ sơ, thiếu phân tích, đán.h giá các chứng cứ vụ án một cách khách quan, toàn diện; chất lượng tranh tụng tại nhiều phiên tòa còn hạn chế, hình thức; Thẩm phán còn quá tin vào tài liệu hồ sơ, chưa chủ động làm rõ các tình tiết mới phát sinh; chưa coi trọng ý kiến bào chữa của bị cáo và luật sư; năng lực áp dụng pháp luật và trách nhiệm trong xét xử của một số Thẩm phán còn yếu; có trường hợp còn tiêu cực, cố ý ra bản án, quyết định hình sự trái pháp luật.
Trong kỳ, số bản án, quyết định phúc thẩm bị kháng nghị và đã xét xử giám đốc thẩm 125 vụ/210 bị cáo. TA cấp giám đốc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại 184 bị cáo, trong đó sửa tội danh 16 bị cáo, áp dụng hình phạt không đúng 95 bị cáo, chưa đủ căn cứ kết tội 25 bị cáo, dấu hiệu bỏ lọt tội phạm 10 bị cáo, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự, sai về phần dân sự 38 bị cáo. 58 bị cáo TA cấp phúc thẩm cho hưởng án treo bị TA cấp giám đốc thẩm hủy án để điều tra xét xử lại, chiếm tỷ lệ 0,87%. Trong số 06 bị cáo được TA phúc thẩm tuyên không phạm tội thì có đến 05 trường hợp bị xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, hủy án phúc thẩm để điều tra, xét xử lại với cả 05 trường hợp.
Theo Thu Hằng
Báo Đảng Cộng sản Việt Nam
Bị can trong án oan Nguyễn Thanh Chấn không có đồng phạm Liên quan tới vụ trọng án xảy ra tại thôn Me, xã Nghĩa Trung (H.Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) khiến ông Nguyễn Thanh Chấn (54 tuổ.i) phải ngồi tù oan hơn 10 năm, ngày 18.5, Cơ quan CSĐT Bộ Công an cho biết vừa hoàn tất kết luận điều tra bổ sung. Lý Nguyễn Chung tại trại tạm giam - Ảnh: Nam Anh...