Vòng quanh thế giới với món dồi lợn
Trong các món lòng lợn tiết canh thì có lẽ dồi lợn (heo) được ưa chuộng và dễ ăn hơn cả không những ở Việt Nam mà trên toàn thế giới.
Mặc dù cho đến nay nguồn gốc của món ăn vẫn chưa có lời giải đáp trọn vẹn. Từ Châu Âu tới Châu Á, mỗi nơi lại có cách làm dồi lợn rất ngon, độc đáo với nhiều gia vị hấp dẫn.
Dồi lợn ở Việt Nam
Có nhiều giả thuyết được nêu ra cho sự xuất hiện của món ăn này trên đất Việt. Có thể đây là âm hưởng của dồi heo Boudin Noir của người Pháp truyền bá sang Việt Nam nhưng nếu tính theo nghĩa xưa của chữ dồi là nhận vào, dồn cho đầy thì cái thuyết ở trên không còn đất đứng.
Dồi lợn của Đức
Món Blutwurst
Blutwurst của Đức có nhiều biến tấu, trong đó có phiên bản dùng tiết heo với các vật liệu nhồi như lúa mạch. Món ăn thường đã nấu chín nhưng khi ăn bao giờ cũng được hâm nóng.
Dồi lợn ở Pháp
Người Pháp gọi dồi lợn là boudin và cũng ăn nóng y hệt như Đức. Bên Pháp, boudin thường bán ở các cửa hàng thịt heo đã chế biến thành phẩm
Boudin thường được ăn nóng
Video đang HOT
Món boudin trước khi rán hoặc luộc
Còn boudin noir thì thường được nhồi với táo và hành. Người Pháp cũng có nhiều phiên bản dồi heo khác nhau tuỳ theo vùng.
Dồi lợn khắp thế giới
Bỉ và Hà Lan thì gọi dồi heo là bloedworst hay beuling. Món dồi heo xứ này có khi đường kính lát dồi to tới cả tấc, thường được chiên, ăn với nước xốt táo, đường nâu và xirô, kẹp bánh mì sandwich.
Người Ý, chính xác hơn là dân Tuscany, có món il:buristo làm từ bao tử, tiết heo và mỡ. Khi ăn không hâm và thường được phết lên bánh mì.
Tây Ban Nha cũng có nhiều phiên bản dồi heo gọi là morcilla. Nổi tiếng nhất là dồi Burgos được làm bằng tiết heo, mỡ, gạo, hành và muối.
Morcilla-dồi heo của người Tây Ban Nha
Không chịu kém, dân Bồ Đào Nha láng giềng cũng có nhiều phiên bản dồi heo, và gọi là morcela, chỉ làm thuần bằng huyết heo, được nhiều người biết đến dưới tên chourio de sangue.
Verivorst của người dân Estonia
Dân Phần Lan lại nướng dồi heo như nướng bánh. Vật liệu để nhồi là lúa mạch đen hoặc yến mạch với hành xắt mỏng.
Riêng dân Estonia có món dồi tương tự như Phần Lan, có điểm đặc biệt là nó được xem như món ăn truyền thống dịp Giáng sinh. Dịp này, có đủ loại verivorst trong các cửa hàng, đủ dáng, đủ cỡ. Verivorst thường được nấu chín trong lò hoặc chiên trong chảo, ăn với mứt quất (lingonberry), cũng có khi ăn với bơ hoặc kem chua.
Ở Đông Âu, dồi heo được biết đến dưới cái tên kishka (nghĩa là ruột), vật liệu nhồi là tiết heo và lúa kiều mạch kasha. Sang Nga thì nó có tên krovyanka hoặc krovyanaya kolbasa, có nghĩa là xúc xích tiết.
Món dồi krovyanka
Bắc Mỹ có những món dồi heo mang âm hưởng của quê cha đất tổ châu Âu. Còn Nam Mỹ thì không thoát khỏi các phiên bản gốc từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Dồi lợn ở Trung Quốc
Ở châu Á, người Trung Quốc thường gọi dồi là hồng tàu hủ, làm bằng tiết heo hoặc tiết vịt, có khi tiết gà, hoặc bò. Miền Bắc nước này còn có dồi cừu hoặc dê. Tây Tạng thì dồi bò yak. Đài Loan có dồi heo với nếp.
Dồi lợn ở Philipines
Người Philippines cũng có dồi heo dinuguan (phái sinh từ dugo có nghĩa là tiết). Vì lát dồi ngả màu đen nên còn gọi trại là sôcôla thịt.
Món saren
Dân Java gọi dồi là saren làm bằng tiết heo hoặc gà. Thái Lan thì sai krok lueat (sai krok là xúc xích, lueat là tiết).
Theo Tạp Chí Ẩm Thực
Củ năn thanh nhiệt, hóa đàm
Củ năn còn gọi là bột tề, mã thầy. Tên khoa học: Eleocharis plantaginea R.Br.. họ Cói (Cyperaceae). Cây năn là loại cỏ, thích sống dưới nước, nên được trồng ở vùng ao hồ hay vùng ngập. Bộ phận dùng là củ. Củ năn chứa nhiều tinh bột, protein và ít đường. Theo Đông y, củ năn vị ngọt đắng, tính bình; vào phế vị. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu tích hoá đàm. Dùng cho các trường hợp sốt nóng mất nước, đau họng, đau mắt đỏ, vàng da sốt, tiểu ít, phù nề, viêm đường tiết niệu, đầy bụng không tiêu.
Liều dùng cách dùng: 60 - 120g; ăn sống; ép vắt nước; nấu.
Một số bài thuốc và món ăn có củ năn dùng chữa bệnh:
Chữa phù thũng, tiểu tiện khó khăn: Củ năn 15 - 20g, lô căn 30g. Sắc nước uống trong ngày.
Nước hãm bột tề (củ năn): Bột tề (củ năn) 120g, đập giập, sắc uống thay nước chè. Dùng cho các bệnh nhân vàng da, tiểu ít.
Củ năn (mã thầy).
Củ năn ngâm rượu: Củ năn, chọn các củ không giập vỡ, rửa sạch để khô, đổ rượu ngâm 3 tuần. Mỗi lần nhai ngậm và nuốt với chút nước và rượu. Ngậm và nuốt khi đói. Dùng cho các trường hợp có hội chứng lỵ amip cấp.
Lòng lợn nhồi củ năn: Củ năn gọt bỏ vỏ, thái lát, cho vào đoạn ruột lợn (lòng lợn) buộc hai đầu, đem luộc nhừ trong xoong hoặc nồi đất, không cho muối. Dùng cho bệnh nhân đầy trướng bụng.
Nước ép củ năn hoà rượu: Nước ép củ năn nửa cốc, hòa chung nửa cốc rượu trắng nhạt cho uống. Dùng cho các trường hợp đại tiện xuất huyết.
Nước ép củ năn: Củ năn 120g ép lấy nước, để lạnh cho uống. Dùng cho các trường hợp đau sưng họng, viêm họng.
Nước sắc củ năn cỏ tranh: Củ năn 120g, bạch mao căn 100g. Củ năn gọt vỏ, ép lấy nước, bạch mao căn nấu lấy nước, đem hòa với nước củ năn, thêm chút đường trắng, cho uống dần dần như uống nước trà. Dùng cho bệnh nhân vàng da, phù nề, tiểu ít.
Canh củ năn: Bột củ năn 250g, bột mứt hồng thị 6g, cát cánh 12g, tử tô 12g, xuyên bối mẫu 10g. Ba vị cùng sắc lấy nước. Dùng nước sắc nấu với bột củ năn, bột mứt hồng thị. Cho ăn ngày 1 lần, đợt dùng 5 - 7 ngày. Dùng cho bệnh nhân viêm họng mạn tính, có triệu chứng viêm teo niêm mạc và đau rát họng, ho khan ít đờm.
Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư hàn không dùng.
TS. Nguyễn Đức Quang
Theo Sức Khỏe Đời Sống
CNN bình chọn những món ăn "thách thức" của Việt Nam Ở nhiều nước trên thế giới, người ta thường cố gắng để diệt những loài côn trùng, sâu bọ, hay vứt bỏ những bộ phận nội tạng của động vật, thế nhưng, ở Việt Nam, tất cả đều được cho vào nồi. Website quốc tế của CNN là CNNGO đã tổng hợp và viết về những món ăn "đầy thách thức" của Việt...