Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ và ký ức người lính – Bài 1: 56 ngày đêm ‘khoét núi, ngủ hầm, máu trộn bùn non’
Trong ký ức của ông Đặng Văn Đảm (82 tuổi, quê gốc ở Nam Hồng, huyện Nam Trực, huyện Nam Định), 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non” trong chiến dịch Điện Biên Phủ là những tháng ngày không thể nào quên…
60 năm đã qua đi, người lính Điện Biên năm xưa nay đã tuổi cao, sức yếu. Nhưng khi nhắc tới những địa danh Mường Thanh, Hồng Cúm, đồi A1… của “chảo lửa” Điện Biên một thời, ông Đảm như hồi sinh trở lại, hừng hực khí thế ra trận của ngày mới mười chín, đôi mươi.
Gian khổ đào hầm đặt bộc phá
Ông kể, trong kháng chiến chống Pháp tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường sau lưng địch nhưng ký ức trận đánh đồi A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ để lại nhiều xúc cảm sâu sắc nhất.
Ông nhớ lại, đồi A1 là cứ điểm mạnh nhất án ngữ đường tấn công của ta vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ban chỉ huy chiến dịch giao cho đại đội công binh của đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung đào hầm ngầm xuyên vào lòng đồi A1 để đánh bộc phá.
Cựu binh Đặng Văn Đảm hồi tưởng lại những tháng ngày “khoét núi, ngủ hầm, máu trộn bùn non” trong chiến dịch Điện Biên Phủ – Ảnh: Nguyễn Tuấn
Ngày ấy, ông Đảm tham gia chiến đấu trong sư đoàn 316, trung đoàn 174, tiểu đoàn 251, Đại đội 671. Ông được phân công trong tổ chiến đấu đào hầm cùng với 4 đồng chí nữa là Khoan, Quảng, Tiền, Chứ. Cứ đêm xuống, quân ta lại đánh lạc hướng kẻ địch ở mục tiêu gần đó để anh em bí mật đột nhập đào hầm.
Từ cửa mở khoét sâu vào đồi chính dài hơn 80 m theo kiểu lỗ chuột. Cả sư đoàn ưu tiên một chiếc đèn ló rạng để vừa đào vừa chiếu đường ngắm cho chính xác. Ông Đảm kể, nguy hiểm nhất là khu vực cửa mở. Nếu bị phát hiện, quân địch đứng từ trên đồi cao sẽ nhả đạn pháo liên tục.
Công việc ngụy trang cửa hầm được làm rất công phu: ngoài cửa hầm có mái che phủ đất để vừa chống lựu đạn và mảnh pháo từ trên cao ném xuống vừa che mắt Pháp; đất đá đào ra đều cho vào bao dù đưa ra ngoài, sau khi đổ còn ngụy trang rất kỹ.
“Vòng quanh sườn đồi, địch bố trí hàng rào thép gai dày đặc 50 phân, gài bom, mìn zip khắp nơi. Quân địch còn dùng súng phun lửa thiêu hủy vòng quanh để quan sát. Chưa kể, có thời điểm ban đêm ta đào, ban ngày địch còn cho xe tăng ra lấp… “, ông Đảm hồi tưởng lại.
Cứ 1 người khoét, 2 người quạt, dùng cả ống nứa để đưa không khí vào. Hầm rộng nhất chỉ 80 phân, sâu tít bên trong chui vào phải cúi khom lưng. Dụng cụ khoét hầm chỉ có cuốc và xẻng dài chừng 50 phân một đầu được mài sắc như dao.
“Khoét hầm gian khổ lắm. Nhiều anh bị ngạt khí, một số khác bị vướng phải mìn của địch gãy chân, gãy tay rồi thương vong cũng nhiều lắm”, ông Đảm kể.
Cuối cùng, sau gần 1 tháng trời các chiến sĩ trong đại đội 671 thay nhau khoét hầm đặt bộc phá dài hơn 80 m vào sát tới lưng hầm cố thủ của địch trên đồi A1. Sau khi đào xong hầm này, ông Đảm và đồng đội tiếp tục đào nhiều hầm khác phục vụ cho tổng tấn công.
Video đang HOT
Xé toạc đồi A1
Khoét hầm gian khổ là thế nhưng gói bộc phá cũng gặp muôn vàn khó khăn. Bộc phá cần 1000 kg thuốc nổ, đó là khối lượng quá lớn với quân ta ở thời điểm đó.
Do tính chất cấp bách chiến dịch nên vận chuyển từ dưới xuôi lên sẽ không kịp. Thế là đoàn công binh phải ra bãi Mường Thanh nhặt những quả bom chưa nổ do Pháp thả xuống để tháo lấy thuốc nổ đưa về.
Vật liệu gói bộc phá cũng không đủ. Bộ đội ta phải nhặt cả dù xanh, dù đỏ ngoài chiến trường đưa về. Cứ 2 kg thuốc nổ được khâu thành quả bộc phá. 10 quả bó chung thành bó to bố trí thêm một kíp mìn để đưa vào hầm.
Hố bộc phá đồi A1 – dấu tích trận chiến năm xưa vẫn còn – Ảnh: Nguyễn Tuấn
Tới ngày 5.5, toàn bộ khối lượng thuốc nổ đã được lực lượng công binh đưa vào hầm bộc phá. Ông Đảm vẫn nhớ như in sau hồi phản pháo quyết liệt của quân ta vào cao điểm A1, anh hùng Nguyễn Văn Bạch giật quả nụ xòe bộc phá ngàn cân.
Đúng 20 giờ 30 phút tối 6.5, quả bộc phá phát nổ. Mặt đất rung chuyển dữ dội. Đồi A1 bị xé toạc. Tất cả các trung đoàn xông lên ào ào như vũ bão. Phần lớn quân địch chiếm đóng ở đồi A1 chết do sập hầm, số còn lại choáng váng tê liệt trong hầm.
Nghe hầm ngầm A1 thất thủ, các nơi Mường Thanh, Hồng Cúm tiêu điều. Các trung đoàn xông lên cắm cờ, gọi hàng, bắt tướng Đờ – Cát tại Hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ….
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến sĩ Đặng Văn Đảm được lệnh trở về đơn vị chỉnh quân tại Thanh Hóa. Đến năm 1958, theo tiếng gọi của Tây Bắc thân thương, ông trở lại lòng chảo Mường Thanh xây dựng kinh tế mới. Từ đó cho tới nay, ông gắn bó mảnh đất này như máu thịt và chứng kiến sự hồi sinh của chảo lửa Mường Thanh từng ngày.
Hầm hào của ta và địch trên đồi A1 còn lại ngày hôm nay – Ảnh: Nguyễn Tuấn
Từ trên đồi A1 hôm nay nhìn thấy thung lũng Mường Thanh sầm uất, đổi thay từng ngày – Ảnh: Nguyễn Tuấn
Ông kể, 60 năm về trước Mường Thanh rậm rạp lau lách um tùm. Cả cánh đồng ngổn ngang dây thép gai, tiêu điều trong khói lửa. Đồi A1, E1… bỏ hoang bom đạn rải rác khắp nơi. Là người lính vào sinh ra tử trong chiến trận nên ông hiểu hơn ai hết về giá trị của cuộc sống hòa bình.
Vẫn tinh thần người lính Điện Biên năm xưa, ông nhanh chóng bắt tay cùng dân bản khai hoang mở đất, rà phá bom mìn, lao động hăng say trong công trường C4 và xây dựng gia đình. Ông luôn dặn dò con cháu phải biết trân trọng cuộc sống hôm nay vì phải đánh đổi bằng bao xương máu của thế hệ cha anh đi trước.
Vừa kể chuyện, ông Đảm vừa khoe tấm huy hiệu cài trước ngực được tặng cách đây không lâu. Tấm huy hiệu thật đặc biệt, trong đó có hình Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
“Với người lính Điện Biên, có tấm huy hiệu Đại tướng coi như là cả báu vật đời mình. Từ khi được tặng, tôi luôn gìn giữ cẩn thận, đeo trước ngực áo lính như lúc nào Đại tướng cũng ở trong trái tim mình”, ông Đảm tự hào.
Theo TNO
Ký ức về quả bộc phá 1.000kg và bắt sống tướng Đờ Cát
Như sợ thời gian và tuổi tác khiến mình quên đi những năm tháng chiến đấu khốc liệt, đẫm máu nhưng rất đỗi hào hùng ấy, nên năm nào cũng vậy, cứ sắp đến dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ là ông lại cặm cụi ghi chép lại những trang hồi ký.
Có lẽ vì điều đó mà cho đến bây giờ đã gần 80 tuổi, người lính già ấy vẫn còn nhớ như in từng ngày từng giờ trong mỗi trận đánh. Ông là Nguyễn Xuân Thắng (SN 1936, tại TP Thanh Hóa). Chúng tôi đến thăm ông khi ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ sắp đến, ông vẫn ngồi cặm cụi ghi chép lại những mốc lịch sử mà mình từng trải qua.
Ông tham gia Trung đoàn 174 thuộc Đại đoàn 316 vào năm 1952. Ông là một trong những nhân chứng sống trực tiếp tham gia những trận đánh lớn của chiến dịch. Ông kể ngày đó chỉ nghĩ đến làm sao đánh thắng giặc mà chẳng màng gì đến những vất vả gian nan. Cứ ngày thì đánh giặc đêm lại đào hầm. Khi đêm xuống, các chiến sĩ bộ đội bắt tay vào đào hầm hào nhưng ban ngày chúng lại đánh sập. "Đất nơi này lại toàn đất đá sỏi, chân tay anh em ai nấy đều bầm dập, tứa máu nhưng dường như ai nấy chẳng cảm nhận thấy đau đớn là gì" - ông tâm sự.
Góp sức cho quả bộc phá 1.000kg và bắt sống tướng Đờ Cát
Cái nhiệm vụ quan trọng là cùng đồng đội ôm quả bộc phá đặt ở đồi A1 để tạo thành một khối bộc phá 1.000kg nhưng cho tới khi hoàn thành ông mới biết. Đó là vào một đêm trước mấy ngày chuẩn bị cho đợt đánh chiếm đồi A1, ông được cử đi khẩn cấp khỏi đơn vị trong đêm.
Trước khi đi, người đồng đội chỉ dặn có gì che mưa thì mang theo nhưng ông bảo thú thật ngày đó làm gì có áo mưa chỉ có một mảnh vải dù nên cũng vội vàng cắp theo rồi đi. Ông được dẫn đến một nơi cách đơn vị khá xa, thấy khoảng 50 anh em đơn vị khác cũng tập trung ở đây. Sau đó, mỗi người được giao nhiệm vụ ôm một bọc, bên ngoài quấn vải trắng rồi đi theo người chỉ dẫn trên đường hầm.
Chiếc bọc đó nặng khoảng 20kg, anh em không biết là gì chỉ biết nhận mệnh lệnh vác đi. Trong đêm tối, đường trơn trượt, pháo sáng của địch bắn lập lòe. Cuối cùng khi trời rạng sáng cũng đến một cái hầm, những người lính được lệnh giao lại bọc đó lại rồi quay trở về đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ.
Thời gian và tuổi tác có thể làm ông Thắng quên đi điều gì đó nhưng riêng về ký ức những ngày chiến dịch Điện Biên thì theo ông cho tới bây giờ
"Lúc đầu khi nhận nhiệm vụ trong đầu anh em ai cũng hồi hộp phán đoán, không biết là gì chỉ nghĩ đây là một việc khẩn cấp và bí mật. Mãi sau này khi vào trận đánh đồi A1 tôi mới biết đó là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, thứ mà anh em được giao đó là bộc phá. Nơi anh em đặt những quả bộc phá đó chính là cứ điểm đồi A1. Khối bộc phá đêm hôm đó mà anh em mang đến có trọng lượng 1.000kg được đặt sát chân lô cốt giặc" - ông Thắng kể lại.
Trong tâm tưởng bất cứ người chiến sĩ nào cũng biết rằng cứ điểm đồi A1 là bức bình phong, là lá chắn thép của Mường Thanh. Chưa giải phóng đồi A1 thì chưa thể giải phóng Điện Biên. Bởi thế mà nhiệm vụ những người lính như ông được giao vô cùng quan trọng.
Hồi tưởng về trận đánh ở đồi A1 cách ngày ông nhận nhiệm vụ đó ít hôm, ông trầm buồn, đôi mắt ngân ngấn nước. Ông kể trước ngày diễn ra trận đánh ở đồi A1, anh em trong đơn vị được chuẩn bị tư tưởng, cấp giày. Nhiều người trong đơn vị tâm sự gửi gắm những nỗi niềm. Những đôi giày được cấp ai cũng cất giữ mà không dám đi vì biết chắc sắp có trận đánh lớn.
Thế rồi vào khoảng 2h sáng ngày 6/5/1954, trong màn đêm im lặng bỗng có một tia chớp, ánh lửa kèm theo tiếng nổ long trời lở đất vang lên. Tiếng nổ ấy chính là quả bộc phá nghìn cân - mở đầu cho cuộc tổng tấn công. Bộ đội ta từ bốn phía xông lên, pháo của ta bắn nhiều vô kể, sáng rực cả một vùng trời Điện Biên. Ta càng đánh càng hăng, ta thì áp sát còn địch thì cố phản công. Ta và địch giành nhau từng tấc đất. Anh em ai cũng ghi nhớ một điều "Một tấc đất, một tấc máu" bởi thế nên trong giây phút đó sự sống và cái chết không còn quan trọng nữa. Cuối cùng đến sáng thì ta đã giải phóng được khá nhiều vùng".
Với nhiều thành tích trong cả thời chiến và thời bình, ông Thắng vinh dự được nhiều lần gặp và chụp ảnh cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp
"Một trận chiến đẫm máu và khốc liệt chưa từng thấy, do sức ép của bộc phá nhiều quân địch đã chết ngay tại chỗ, máu ướt đẫm trên đồi A1. Xác giặc ngổn ngang trên đồi. Phía ta cũng nhiều chiến sĩ, những người con ưu tú của dân tộc, đã vĩnh viễn nằm lại trên quả đồi này" - Ông Thắng ngậm ngùi khi nhớ về những người lính của ta đã hy sinh trong trận đánh.
Nhấp chén trà, ông bồi hồi nhớ lại giây phút chiến thắng: "Giữa trưa ngày 7/5, các mũi tấn công của ta liên tiếp áp sát, siết chặt vòng vây, tiến sâu vào "sống tủi" của Đờ Cát. Gần tối thì chúng đầu hàng vô điều kiện. Các đơn vị chia thành từng tổ vào từng hầm bắt nó giơ tay đầu hàng. Tôi cùng một số anh em nữa vào bắt sống tướng Đờ Cát. Vậy là, kết thúc 56 ngày đêm đào hầm chiến đấu, làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ vẻ vang năm châu, chấn động địa cầu".
Gian nan áp giải tù binh về hậu phương
Sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ chiến thắng, ai nấy đều háo hức chờ đón ngày được dự lễ chiến thắng thế nhưng ông là một trong số người được cử áp giải tù binh Pháp về hậu phương. Vậy là phải bỏ qua buổi lễ tuyên bố chiến thắng, ông cùng đồng đội áp giải khoảng hơn 1 vạn quân địch đi bộ từ Điện Biên về Thanh Hóa.
Lực lượng của ta thì mỏng, lực lượng của địch thì đông. Bình quân mỗi một chiến sĩ phải quản lý khoảng 50 quân địch. Phía dưới quân địch đông, phía trên máy bay địch vẫn bay là là vừa để cung cấp lương thực, hàng hóa vừa rải truyền đơn nên trong lòng chiến sĩ nào cũng vừa mừng vừa lo. Sau khi được động viên của cán bộ thì chúng tôi cũng cảm thấy yên lòng.
Trên con đường về hậu phương, nhiều đoạn đường địch cố thủ không đi, đòi ưu sách, cướp súng hay trốn vào bản... Trải qua tất cả những gian nan đó, cuối cùng bộ đội ta cũng hoàn thành nhiệm vụ.
"Vậy là như một vòng tròn khép kín, tôi tham gia ngay từ những buổi đầu cho đến khi kết thúc, trao trả tù binh về hậu phương - kết thúc cuộc hành trình chiến dịch Điện Biên Phủ. Dù gian khổ nhưng rất đỗi tự hào..." - ông Thắng chia sẻ.
Nguyễn Thùy
Theo Dantri
Điện Biên 'chạy nước rút' trước thềm đại lễ Chỉ còn vài ngày nữa tới đại lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng nhiều công trình nằm trong quy hoạch khu di tích Điện Biên Phủ (TP.Điện Biên Phủ, Điện Biên) vẫn còn đang dang dở, ngổn ngang. Các hạng mục bên trong bảo tàng vẫn chưa được hoàn thiện - Ảnh: Nguyễn Tuấn Được coi là công...