Vó ngựa quân Thành Cát Tư Hãn giày xéo Trung Quốc thế nào
Để thực hiện ước vọng xây dựng đế chế hùng mạnh nhất lục địa Á-Âu, Thành Cát Tư Hãn khởi xướng việc xâm lược Trung Quốc, sau đó đạo quân của ông mất tới 60 năm ròng để hoàn thành.
Bản đồ các vương triều Trung Quốc trước khi quân Mông Cổ dồn quân xâm lược.
Thành Cát Tư Hãn được xem là nhân vật đặc biệt quan trọng trong lịch sử thế giới với tài năng quân sự và tầm nhìn lỗi lạc. Đế chế Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lập nên được xem là quốc gia có diện tích liền mạch và lớn nhất thế giới từ trước tới nay. Loạt bài này sẽ kể lại những câu chuyện sống động về cuộc đời, sự nghiệp và tài năng kiệt xuất của Thành Cát Tư Hãn.
Quân Mông Cổ xâm lược Trung Quốc là một quá trình trường kỳ, kéo dài 60 năm với những trận chiến khốc liệt. Những vương triều tàn lụi dưới vó ngựa Mông Cổ có nhà Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Nam Tống.
Thành Cát Tư Hãn là người mở đầu chiến dịch bằng các đợt du kịch vào nhà Tây Hạ và tới năm 1276, Hốt Tất Liệt, cháu của Thành Cát Tư Hãn kết thúc 6 thập kỷ giao tranh, lập nên nhà Nguyên. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc bị một thế lực ngoại bang xâm lược, bình định và làm chủ.
Chinh phục Tây Hạ
Trận chiến của quân Mông Cổ ở vùng Hoan Nhi Chủy trong trận Dã Hồ Lĩnh nổi tiếng.
Cuối năm 1190, đầu năm 1200, Thiết Mộc Chân, sau được tôn xưng là Thành Cát Tư Hãn (bá chủ vũ trụ) nhanh chóng củng cố quyền lực của mình ở đế chế Mông Cổ. Năm 1205, Thành Cát Tư Hãn tấn công vào khu vực Edsin và một tộc người Tây Hạ ở biên giới chấp thuận thần phục quân Mông Cổ. Sau đó hai năm, Thành Cát Tư Hãn dẫn một cách quân khác thọc sâu vào lãnh thổ Tây Hạ, xâm lược khu vực Ordo, Ô Lai Hải dọc sông Dương Tử trước khi rút binh vào năm 1208.
Một năm sau đó, Thành Cát Tư Hãn lại kéo quân tiến vào Tây Hạ nhằm khuất phục hoàn toàn quốc gia này. Sau khi đánh bại một lực lượng do tướng Kao Liang-Hui chỉ huy ngoài Ô Lai Hải, Thành Cát Tư Hãn chiếm được thành phố này và dồn quân dọc sông Dương Tử, đồng thời bao vây thành phố Ngân Xuyên (khu tự trị Ninh Hạ ngày nay) bằng 15 vạn quân.
Thời điểm năm 1209, quân Mông Cổ vẫn chưa rành rẽ chiến thuật bao vây. Khi Thành Cát Tư Hãn ra lệnh lấp dòng Dương Tử để chặn nguồn nước của dân bản địa, tường bao bị vỡ và nhấn chìm khu lều trại của lính Mông Cổ. Dù vậy, hoàng đế Lý An Toàn vẫn sợ hãi trước thế quân Mông Cổ và xin hàng. Ông thể hiện sự thần phục của mình bằng cách gả con gái Chaka cho Thành Cát Tư Hãn và cống nạp lạc đà, chim ưng và vải quý.
Nhà Tây Hạ sau đó trở thành chư hầu đắc lực của Thành Cát Tư Hãn trong gần 10 năm, hỗ trợ quân Mông Cổ tấn công xâm lược nhà Kim. Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn chỉ huy chiến dịch đánh chiếm đế quốc Khwarazm ở Iran ngày nay và nhận được sự trợ giúp về mặt hậu cần của nhà Tây Hạ.
Tiêu diệt và đặt Tây Hạ trong sự thần phục là bước đệm quan trọng để Thành Cát Tư Hãn diệt Đại Lý và Nam Tống.
Dù vậy, hoàng đế nhà Tây Hạ là Asha không đồng ý tham chiến và nói rằng Thành Cát Tư Hãn có quá ít quân để tiêu diệt đế chế Khwarazm hùng mạnh. Thành Cát Tư Hãn nổi xung và tự đưa quân đánh chiếm đế quốc ở vùng Trung Á. Nhà Tây Hạ lúc này định liên thủ cùng nhà Kim, Tống để đánh lại Thành Cát Tư Hãn.
Quân số Khwarazm đông đảo hơn nhưng không chống đỡ nổi những đợt tấn công như vũ bão của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1221, đế chế này bị tiêu diệt hoàn toàn và chủ soái của Khwarazm còn bị đổ bạc nóng chảy vào tai và mắt. Cùng thời điểm, Thành Cát Tư Hãn lên kế hoạch trả thù nhà Tây Hạ vì mưu phản bằng việc tập hợp số quân lên tới 18 vạn người.
Sau khi chiếm được Khara-Khoto (Nội Mông ngày nay), quân Mông Cổ tràn xuống phía nam. Hoàng đế Asha lúc này đang ở Ngân Xuyên, cách phía nam 500 km và còn một sa mạc nóng bỏng phải vượt qua nên không về kịp. Thành Cát Tư Hãn hạ lệnh cho binh sĩ “giết sạch, đốt sạch” và yêu cầu tướng lĩnh phá hủy toàn bộ hệ thống phòng ngự của Tây Hạ. Thành Cát Tư Hãn chia quân làm hai cánh, trong đó tướng Tốc Bất Đài tiêu diệt các thành phố phía cực tây và lực lượng chính do Thành Cát Tư Hãn dẫn đầu tiêu diệt vùng phía đông. Thành Cát Tư Hãn chiếm được Cám Châu (tỉnh Giang Tây ngày nay) nhưng thị trấn này được “tha” không bị phá hủy do tướng Chagaan của Thành Cát Tư Hãn sinh ra ở đây.
Tháng 8.1226, Thành Cát Tư Hãn tấn công thành phố lớn thứ hai của Tây Hạ là Võ Vệ và nơi này xin hàng luôn để tránh bị đốt thành than. Tới mùa thu, Thành Cát Tư Hãn vượt qua sa mạc Helan Shan, bao vây Lingwu rồi có một trận huyết chiến sông Dương Tử diệt toàn bộ 30 vạn quân Tây Hạ.
Mùa xuân năm sau, Thành Cát Tư Hãn tới thành phố Ngân Xuyên, tấn công liên tục để ngăn nhà Kim gửi cứu viện sang nhà Tây Hạ. Thành phố Ngân Xuyên bị bao vây trong nửa năm và Thành Cát Tư Hãn quyết định thương thảo hòa bình trong khi bí mật lên kế hoạch giết hoàng đế Tây Hạ. Trong khi điều đình, Thành Cát Tư Hãn vẫn dấn quân đánh vào núi Lưu Bàn (khu tự trị Ninh Hạ ngày nay). Sau đó, chủ soái Mông Cổ từ chối lời cầu hòa từ nhà Kim và đem quân tới biên giới giáp nhà Kim-Tống.
Tuy nhiên, năm 1227 Thành Cát Tư Hãn đột ngột qua đời với lí do vẫn là bí ẩn lớn nhất thời đại. Tháng 9 cùng năm, hoàng đế Tây Hạ là Mạt Chủ xin đầu hàng và bị chém luôn tại trận. Quân Mông Cổ thừa thắng điên cuồng tấn công thành phố Ngân Xuyên, tàn sát toàn bộ dân số, phá hủy các ngôi mộ cổ và tiêu diệt hoàn toàn nhà Tây Hạ.
Tiêu diệt nhà Kim
Video đang HOT
Quân Mông Cổ chiếm được Trung Đô (Bắc Kinh ngày nay) năm 1213.
Một trong những mục tiêu lớn nhất của Thành Cát Tư Hãn là chinh phục nhà Kim để trả thù cho cái chết trước đây của tổ tiên và thu được các nguồn tài nguyên dồi dào ở phía bắc Trung Quốc. Tiếp đó là tạo bàn đạp xây dựng Mông Cổ thành đế chế hùng mạnh nhất khu vực Âu-Á.
Việc tấn công nhà Kim được Thành Cát Tư Hãn thực hiện từ những năm 1211. Thời điểm đó, quân Mông Cổ rất giỏi tấn công trên đồng bằng nhưng vẫn rất lúng túng ở những thành phố lớn. Thành Cát Tư Hãn và tướng tá đã lập kế hoạch và tìm ra cách đánh địa bàn đô thị phù hợp nhất. Với sự giúp đỡ của các kĩ sư Trung Quốc, họ nghĩ ra một số kĩ thuật để công thành hiệu quả. Các kĩ sư Hồi giáo sau này cũng sáng chế ra máy bắn đá giúp việc tấn công nhà Kim dễ dàng hơn. Máy bắn đá của Thành Cát Tư Hãn có tầm xa 300 m so với loại của Trung Quốc chỉ 150 m. Đây được xem là vũ khí tối quan trọng trên chiến trường để áp đảo bộ binh của đối phương.
Nhờ khả năng tác chiến tốt và sự hỗ trợ đắc lực của máy bắn đá, Thành Cát Tư Hãn nhanh chóng chinh phục nhà Kim vào năm 1213. Ông dùng ba cánh quân tấn công vào “trái tim” của nhà Kim nằm giữa Vạn Lý Trường Thành và sông Dương Tử. Với sự giúp đỡ của tướng Chenyu Liu từng phục vụ nhà Kim, Thành Cát Tư Hãn dễ dàng tiêu diệt đối phương và chinh phục thành trì Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay).
Dù vậy, hoàng đế Huyền Tông của nhà Kim không đầu hàng mà rời kinh đô về Khai Phong. Năm 1234, nhà Kim sụp đổ hoàn toàn khi hoàng đế Ai Tông chạy tới Thái Châu.
Chinh phạt Đại Lý
Hốt Tất Liệt, cháu của Thành Cát Tư Hãn cũng là một tướng tài năng góp phần chinh phục Đại Lý.
Năm 1253, quốc vương Mông Kha cử Hốt Tất Liệt, cháu ruột của Thành Cát Tư Hãn tới Đại Lý để áp sườn đánh Tống. Nhà họ Cao ở Đại Lý lúc này làm chủ khu vực đã bắt, giết hại sứ giả Mông Cổ. Quân Mông Cổ ngay lập tức triển khai đội hình thành 3 cánh quân.
Một cánh hướng phía đông vào lòng chảo Tứ Xuyên. Cánh thứ hai do tướng Ngột Lương Hợp Thai đi đường núi vào phía tây Tứ Xuyên. Hốt Tất Liệt dẫn cánh quân về phía nam, qua vùng đồng cỏ và hợp quân với cánh đầu tiên.
Trong khi Ngột Lương Hợp Thai vượt qua vùng phía bắc thì Hốt Tất Liệt tấn công thủ phủ Đại Lý, chiếm được thành trì này nhưng tha cho dân địa phương. Vua Đại Lý là Đoạn Hưng Trí tự nộp mình cho quân Mông Cổ và được phong làm Maharajah (vị vua vĩ đại), cai quản một vùng. Sau khi Hốt Tất Liệt rời khỏi, bạo loạn lại nổ ra giữa tộc người thiểu số Black Jang. Năm 1256, Ngột Lương Hợp Thai mới chính thức bình định xong vùng đất đầy sóng gió là tỉnh Vân Nam ngày nay.
Nhọc nhằn diệt Nam Tống
Diện tích nhà Nguyên năm 1294 sau khi Hốt Tất Liệt xưng vương.
Ban đầu, quân Mông Cổ liên minh với nhà Tống vì cả hai đều có kẻ thù là nhà Kim. Tuy nhiên, liên minh này nhanh chóng đổ vỡ khi nhà Kim của người Nữ Chân bị tiêu diệt hoàn toàn năm 1234. Nhà Tống đã ngay lập tức chiếm vùng Lạc Dương, Trường An, Khai Phong và giết hại sứ giả quân Mông Cổ. Lúc này, chiến tranh hai bên chính thức nổ ra. Với thực lực của mình, quân Mông Cổ đẩy nhà Tống lùi sâu về sông Dương Tử và cuộc chiến kéo dài trong hơn 40 năm cho tới 1276.
Số lượng quân sĩ Mông Cổ tham chiến ở miền nam Trung Quốc rất lớn so với số quân xâm lược Trung Đông năm 1256. Trước đây, quân Mông Cổ cần rất ít thời gian để chinh phạt Kim và Tây Hạ, những nơi không phải người Hán sinh sống. Khi tấn công nhà Tống, thời gian kéo dài hơn nhiều.
Quân nhà Tống lúc đó được trang bị vũ khí rất hiện đại, gồm cung tên lửa, pháo lửa và máy phun lửa. Sự chống trả quyết liệt của nhà Tống khiến quân Mông Cổ trải qua thời kì đánh trận dai dẳng và khó khăn nhất. Quân Mông Cổ thậm chí còn phải thu phục từng người dân địa phương nhằm tạo lợi thế nhỏ nhoi trước nhà Tống.
Sau vài trận đánh bất phân thắng bại, quân Mông Cổ không thể nào tiêu diệt phòng tuyến của nhà Tống ở Điếu Ngư, thành phố Trùng Khánh ngày nay. Bước ngoặt xảy ra khi tướng bảo vệ ở phòng tuyến này không được nhà Tống khen thưởng mà trái lại còn bị phạt. Người này sau đó bỏ trốn sang phía Mông Cổ. Người này gợi ý cho Hốt Tất Liệt rằng phải chiếm được thành trì Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc ngày nay) thì mới giành được thắng lợi.
Quân Mông Cổ ngay lập tức tấn công Tương Dương và bao vây thành trì này trong vài năm với sự giúp đỡ của các kĩ sư Iraq chế tạo máy bắn đá. Những kĩ sư này là lực lượng chấp nhận thần phục đế chế Mông Cổ và dùng tài năng của mình trong các trận chiến giúp đỡ chủ soái mới. Cuối cùng, Tương Dương phải đầu hàng. Nhà Tống tiếp tục phái quân cứu trợ Tương Dương dưới sự chỉ huy của vị tướng kém cỏi Giả Tự Đạo. Chính ông là người góp phần rất lớn vào sự diệt vong của nhà Tống. Năm 1276, nhà Tống đầu hàng Mông Cổ.
Với ước vọng thống lĩnh toàn cõi Trung Hoa, Hốt Tất Liệt lập ra triều Nguyên và trở thành hoàng đế “nước ngoài” đầu tiên ở Trung Quốc. Dù nhà Tống đã đầu hàng nhưng tàn quân vẫn tấn công không ngơi nghỉ. Vài năm sau lực lượng tàn quân này mới chấm dứt.
________
Sau khi đặt Trung Quốc dưới sự cai quản của triều Nguyên thì cần kể tới quá trình chinh phạt châu Âu đầy thử thách của đế chế Mông Cổ. Với tài cầm quân siêu hạng của mình, Thành Cát Tư Hãn giành chiến thắng liên tiếp và làm chủ một dải từ Á sang Âu rộng 24 triệu km2. Mời bạn đọc bài tiếp theo xuất bản sáng sớm 16.10 để hiểu thêm về quá trình chinh phạt châu Âu đầy vẻ vang của chủ soái Thành Cát Tư Hãn.
Theo Danviet
Vị tướng kì tài giúp Thành Cát Tư Hãn đánh đâu thắng đấy
Ông chỉ huy hơn 20 chiến dịch lớn, kéo quân xâm chiếm 32 quốc gia và giành chiến thắng trong 65 trận chiến quan trọng, chinh phục nhiều lãnh thổ hơn bất kì vị tướng nào trên thế giới.
Tốc Bất Đài - vị tướng huyền thoại dưới thời Thành Cát Tư Hãn.
Thành Cát Tư Hãn được xem là nhân vật đặc biệt quan trọng trong lịch sử thế giới với tài năng quân sự và tầm nhìn lỗi lạc. Đế chế Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lập nên được xem là quốc gia có diện tích liền mạch và lớn nhất thế giới từ trước tới nay. Loạt bài này sẽ kể lại những câu chuyện sống động về cuộc đời, sự nghiệp và tài năng kiệt xuất của Thành Cát Tư Hãn.
Tốc Bất Đài là một tướng tài thuộc tộc người Ô Lương Hải và là cánh tay phải đắc lực của Thành Cát Tư Hãn trong việc xây dựng và mở rộng đế chế Mông Cổ. Ông chỉ huy hơn 20 chiến dịch lớn, kéo quân xâm lược 32 quốc gia và giành chiến thắng trong 65 trận chiến quan trọng. Tốc Bất Đài là người chinh phục nhiều vùng lãnh thổ hơn bất kì vị tướng nào trong lịch sử thế giới.
Tốc Bất Đài giành chiến thắng bởi chiến lược phức hợp, sáng tạo và khả năng điều binh, khiển tướng tài tình dù các đơn vị có thể cách xa nhau hàng trăm kilomet. Ông là người đã lên kế hoạch và tấn công đạo quân của Hungary và Ba Lan chỉ trong 4 ngày dù cách xa đối phương 500km.
Các sử gia cho rằng Tốc Bất Đài sinh ra vào năm 1175 ở phía tây sông Onon, giờ đây thuộc địa phận Mông Cổ. Ông là người thuộc bộ tộc Ô Lương Hải. Gia đình của Tốc Bất Đài có quan hệ gần gũi với Thiết Mộc Chân (sau này là Thành Cát Tư Hãn) trong nhiều đời.
Dù không có mối quan hệ họ hàng nhưng Tốc Bất Đài là minh chứng cho thấy đế chế Mông Cổ được xây dựng theo chế độ tuyển lựa người tài. Lúc ra đời, Tốc Bất Đài chỉ là một thường dân và là con trai của thợ rèn Cốt Đãi Ngột Lang. Năm lên 14 tuổi, Tốc Bất Đài rời bỏ bộ tộc của mình và gia nhập quân của Thiết Mộc Chân theo bước chân anh trai mình. Tốc Bất Đài leo lên từng vị trí trong quân đội Mông Cổ bằng tài năng lỗi lạc dù không hề có quan hệ máu mủ ruột rà với Thành Cát Tư Hãn.
Tích trữ lương thảo và chú trọng đội ngũ hậu cần là một ưu điểm hàng đầu của Tốc Bất Đài trước những trận chiến dai dẳng.
Trong vòng 10 năm, Tốc Bất Đài trở thành một trong "tứ dũng" được Thành Cát Tư Hãn hết sức tin dùng, gồm Bác Nhĩ Truật, Giả Lặc Miệt, Mộc Hoa Lê và Tốc Bất Đài. Trong cuốn "Lịch sử đế chế Mông Cổ" có nhắc tới Tốc Bất Đài trong vai trò cánh tay phải của Thành Cát Tư Hãn: "Họ là tứ dũng của Thiết Mộc Chân. Trán họ bằng đồng thau, móng vuốt như những chiếc kéo, lưỡi họ như chiếc dùi, đầu cứng hơn sắt. Trong ngày chinh phạt, họ uống máu kẻ thù. Nhìn xem, khi họ được thả ra, miệng họ đầy nước dãi của sự hân hoan. Tứ dũng đó là Bác Nhĩ Truật, Giả Lặc Miệt , Mộc Hoa Lê và Tốc Bất Đài".
Tốc Bất Đài cùng với Thành Cát Tư Hãn đã nhận ra tầm quan trọng của chiến lược vây hãm trong thế trận chiến tranh với kẻ thù. Thậm chí trong trong những lần giao chiến trên đồng bằng, ông cũng sử dụng kế sách này.
Tốc Bất Đài được biết tới là người rất giỏi thu phục tù binh và tận dụng những tài năng riêng biệt của họ, đặc biệt là những kĩ sư, nhà quân sự lành nghề. Tốc Bất Đài rất tài năng trong việc thu thập thông tin tình báo và lên kế hoạch chi tiết trước khi xung trận.
Chẳng hạn trong cuộc chiến với quân Hungary, Tốc Bất Đài cho quân do thám kĩ càng trước một năm. Ông tự thiết kế chiến sách phù hợp với từng đối tượng tấn công và điều chỉnh tùy tình hình thực địa và thời tiết.
Tốc Bất Đài ưu tiên sử dụng kị binh nhẹ, biến quân sĩ thành những tốp nhỏ có khả năng phục kích, "luồn sâu đánh hiểm" và tiêu diệt tàn quân kẻ địch cho tới khi chúng không còn sức kháng cự. Tốc Bất Đài vẫn duy trì kỉ luật quân đội bằng các bài tập khắc nghiệt và đảm bảo quân sĩ hành quân dài ngày mà không biết mệt mỏi. Tốc Bất Đài thường tấn công những địa điểm yếu nhất của kẻ thù trước khi tung đòn quyết định.
Chiến dịch đầu tiên
Trận chiến đầu tiên tiêu diệt đế chế Khwarism (Ảnh minh họa).
Trận đánh đầu tiên của Tốc Bất Đài là săn lùng người Merkit ở hạ lưu sông Orkhon, Mông Cổ ngày nay. Tốc Bất Đài đã đánh bại họ tại sông Chuy năm 1216 và tiếp tục xâm lược vùng lãnh thổ Wild Kipchak (phía tây Thổ Nhĩ Kỳ). Ngay sau đó, Quốc vương Mohammad II của vương quốc Khwarizm (Iran ngày nay) tấn công Tốc Bất Đài nhưng bị phản đòn và quân thua tan tác.
Thành Cát Tư Hãn dẫn quân Mông Cổ về phía tây năm 1219 để xâm lược đế quốc Khwarism khi nước này giết hại sứ giả quân Mông Cổ. Tốc Bất Đài là tướng chỉ huy trận đánh quan trọng trên. Với hơn 10 vạn quân tinh nhuệ, quân Mông Cổ vẫn còn quá ít ỏi so với lực lượng của đế quốc Khwarism. Tuy nhiên, cách thức hành quân thần tốc và các kế sách khôn khéo, quân Mông Cổ đã tiêu diệt Khwarism sau vài trận chiến khốc liệt.
Quốc vương Mohammad II định chạy trốn tới vùng trung tâm Ba Tư nhưng bị Tốc Bất Đài cùng tướng Triết Biệt truy sát với 2 vạn quân. Mohammad lẩn trốn thành công nhưng bị ốm và chết ở một làng ven biển Casipan năm 1221.
Mùa đông năm đó, Tốc Bất Đài đóng quân ở vùng Azerbaijan. Tại đây, ông nghĩ ra ý tưởng bao vây biển Caspian để bọc hậu, tấn công tộc người Wild Kipchak và Cuman (tộc người Thổ du mục sống ở miền tây). Cũng như những kịch bản quen thuộc, Tốc Bất Đài chinh phạt hoàn toàn khu vực tây Thổ Nhĩ Kỳ và hợp quân với Thành Cát Tư Hãn để trở về nước.
Đánh Tây Hạ và Kim
Tốc Bất Đài đóng vai trò quan trọng trong trận chiến tấn công Tây Hạ năm 1226. Liền đó năm 1227, ông định thôn tính nhà Kim dọc sông Vị. Chiến dịch này bị tạm hoãn một thời gian vì Thành Cát Tư Hãn đột ngột qua đời ở vùng núi Trung Quốc ở tuổi 66. Con trai Thành Cát Tư Hãn là Oa Khoát Đài nối ngôi cha.
Từ năm 1230 đến 1232, quân Mông Cổ tấn công hai lần hòng tiêu diệt nhà Kim nhưng bất thành. Quân sĩ nhà Kim đông hơn và địa hình phức tạp khiến Tốc Bất Đài không thể đạt được tham vọng của mình. Phải tới năm 1234, khi Tốc Bất Đài liên thủ với nhà Tống thì nhà Kim mới bị tiêu diệt.
Tấn công Trung và Đông Âu
Trận chiến Mohi và Lenigca là hai chiến thắng điển hình của kị binh Mông Cổ trước các chiến binh châu Âu.
Cuộc tấn công cuối cùng vào châu Âu là do Tốc Bất Đài lên kế hoạch và thực hiện. Sau khi tiêu diệt nhiều vương quốc ở liên bang Nga, Tốc Bất Đài cử do thám tới Ba Lan, Hungary, Áo nhằm chuẩn bị tấn công trung tâm châu Âu.
Sau khi có được bức tranh tổng thể của châu Âu nhờ lực lượng do thám gửi về, Tốc Bất Đài chuẩn bị kế hoạch tấn công dưới sự chỉ huy của Bạt Đô và hai hoàng tử khác. Dù Bạt Đô là thống lĩnh quân đội nhưng người chỉ huy thực tế là Tốc Bất Đài. Ông có mặt ở hai chiến dịch miền nam và miền bắc ở đại công quốc Kiev Rus (Đông Âu ngày nay).
Tốc Bất Đài cũng đích thân chỉ huy trận đánh vào vương quốc Hungary. Khi lực lượng quân Hợp Đan (con trai thứ hai của Oa Khoát Đài) chiến thắng trong trận Legnica (tiêu diệt quân liên quân châu Âu) và quân Quý Do (con trai cả của Oa Khoát Đài) chiến thắng ở vùng Transylvania (Romania ngày nay), việc duy nhất của Tốc Bất Đài là đợi họ có mặt ở đồng bằng Hungary.
Khi biết quân Hungary tới giao chiến, Tốc Bất Đài ngay lập tức điều quân rút lui khỏi sông Sajo, nhử khiến quân địch đuổi theo. Đây là kế sách cổ xưa của đế quốc Mông Cổ và kẻ địch đã bị sập bẫy. Lúc này, quân Mông Cổ đã phục kích sẵn trong rừng và chờ đợi quân Hungary phơi mình trên đồng bằng Mohi rộng lớn.
Quân Mông Cổ truy sát tàn quân (Ảnh minh họa).
Một ngày sau trận thắng Legnica, Tốc Bất Đài tấn công trận chiến Mohi lịch sử ngày 10.4.1241. Một đơn vị quân Mông Cổ bí mật vượt sông và tấn công vào sườn nam khu lều trại của lính Hungary. Đội hình chính vượt sông Sajo bằng cầu nhưng bị quân Hungary chống trả dữ dội. Tốc Bất Đài đã sử dụng máy bắn đá để dẹp đường cho kị binh và bộ binh tấn công.
Dàn cung thủ Hungary gây ra tổn thất ít nhiều cho quân Mông Cổ. Tốc Bất Đài khi đó không muốn đối mặt với lực lượng cung thủ Hungary thiện chiến trang bị cả dao, kiếm và đội hình tốt nên chọn cách tách lực lượng cung thủ này ra.
Quân Mông Cổ khi tấn công vờ rút lui, để lộ khoảng trống đội hình. Quân Hungary hăm hở lao vào khiến cung thủ không được che chắn và mất kỉ luật vốn có. Theo đúng tính toán của Tốc Bất Đài, quân Hungary rơi vào một vùng đầm lầy ngập nước khiến ngựa không thể di chuyển. Cung thủ Mông Cổ lúc này chỉ việc bắn hạ bất kì mục tiêu nào theo sở thích. Sử liệu cho thấy xác quân Hungary lấp đầy đường sau 2 ngày giao tranh. Toàn bộ 4 vạn binh sĩ, giám mục và tổng giám mục ở Sajo của quân đội Hungary đều chịu chung số phận bi thảm. Quân Mông Cổ chỉ thiệt hại chưa đầy 1.000 người.
Những năm cuối đời
Trước khi kết thúc binh nghiệp, Tốc Bất Đài diệt nốt nhà Tống, rộng đường cho việc thành lập nhà Nguyên ở Trung Quốc.
Cuối năm 1241, Tốc Bất Đài đề xuất kế hoạch tấn công đế chế La Mã. Tuy nhiên, cái chết đột ngột của Oa Khoát Đài khiến kế hoạch xâm lăng này bị hoãn vô thời hạn. Hoàng đế mới của đế chế Mông Cổ mời Tốc Bất Đài ở tuổi 70 chỉ huy chiến dịch chống quân Tống năm 1246-47. Đây là chiến dịch cuối cùng của quân Mông Cổ trước khi thống nhất toàn cõi Trung Quốc và lập nên triều nhà Nguyên.
Sau khi diệt Tống, Tốc Bất Đài trở về quê nhà vào năm 1248 và sống phần đời còn lại bên dòng sông Tuul (gần thủ đô Ulanbator ngày nay). Ông qua đời năm 72 tuổi.
____________
Trận chiến Dã Hồ Lĩnh chỉ là một trận chiến nhỏ trong hàng ngàn trận chiến của Thành Cát Tư Hãn, nhưng đây là bước đệm quan trọng để ông chinh phạt và làm chủ hoàn toàn Trung Quốc rộng lớn. Đáng lưu ý, trận chiến chỉ diễn ra trong vòng 8 tháng và quân Mông Cổ được nghỉ ngơi hẳn một tháng giữa hai lần xung trận. Mời bạn đọc bài tiếp theo xuất bản sáng sớm 14.10 để hiểu thêm về chiến thắng lẫy lừng nhất của Thành Cát Tư Hãn.
Theo Danviet
Trận chiến duy nhất Thành Cát Tư Hãn thua cuộc Trận thua được cho là duy nhất của Thành Cát Tư Hãn vẫn là một bí ẩn, thậm chí nhiều sử gia cho rằng đây là câu chuyện bịa của đối phương bại trận. Tranh mô tả trận chiến eo Samara, nơi Thành Cát Tư Hãn được cho là thất bại thảm hại. Thành Cát Tư Hãn được xem là nhân vật đặc...