VNDIRECT: Hầu hết giá cổ phiếu của dệt may hiện đang gần với giá trị hợp lý, động lực tăng trưởng đến từ nhiều dự án khu công nghiệp
VNDIRECT cho rằng hầu hết giá cổ phiếu của dệt may hiện đang gần với giá trị hợp lý và nhà đầu tư nên có chọn lọc, tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp đầu ngành và có kế hoạch mở rộng công suất nhà máy trong 2022-25.
Nhiều mã cổ phiếu dệt may tăng mạnh
Theo phân tích mới đây từ Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại ( Bộ Công thương), năm 2021, ngành dệt may Việt Nam đã về đích với 39 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 11,2% so với năm 2020, tương đương với thời điểm trước dịch (năm 2019). Nhiều doanh nghiệp dệt may có KQKD tăng trưởng ấn tượng: Theo ước tính của VNDIRECT, tổng doanh thu Q4/21 của các công ty dệt may niêm yết tăng 24,1% svck, trong khi LN ròng của ngành tăng 57,0% svck trong Q4/21, cao hơn 82,0% so với Q3/21. Các doanh nghiệp có mức tăng trưởng LN ấn tượng phải kể đến ADS ( 303,2% svck), VGT ( 161,4% svck) và STK ( 92,9% svck).
So với thời điểm dịch Covid-19 lần thứ tư bùng phát (tháng 7/2021), nhiều mã cổ phiếu dệt may bật tăng mạnh, TNG ( 131,76%), EVE ( 62,62%), MSH ( 64,62%), VGT ( 80,85%), ADS ( 76,1%), STK ( 66,15%).
Mức tăng trưởng này đến từ sự phục hồi trong Quý IV/2021, sau thời gian dài ảnh hưởng bởi giãn cách xã hội trong Quý III/2021. Xuất khẩu vải và hàng may mặc trong Quý IV/2021 tăng 21,6% svck lên 9,5 tỷ USD.
Nguồn: MOIT, VNDIRECT Research
Hưởng lợi từ chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
Việt Nam còn được hưởng lợi từ việc dịch chuyển các đơn hàng vải, may mặc và xơ sợi từ Trung Quốc do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Tháng 12/2021, tổng thống Joe Biden ký sắc lệnh cấm nhập khẩu sợi từ Tân Cương (Trung Quốc), VNDIRECT kỳ vọng các doanh nghiệp sản xuất sợi như ADS, STK,VGT được hưởng lợi từ miếng bánh Tân Cương. Đặc biệt, trong năm 2021, Việt Nam đã vượt qua Hàn Quốc, trở thành nước xuất khẩu xơ sợi lớn thứ 6 trên thế giới, với tổng giá trị xuất khẩu sợi đạt 5,6 tỷ USD vào năm 2021 ( 50,8% svck).
Video đang HOT
Nguồn: MOIT, VNDIRECT Research
Thị trường mỹ và EU phục hồi
Hiện tại, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam. Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ tháng 01/2022 đạt 1,85 tỷ USD, tăng 2% so với tháng 12/2021 và tăng 42% so với tháng 01/2021.
Theo Liên đoàn Dệt may Châu Âu (Euratex), ngành dệt may EU tiếp tục chứng kiến sự phục hồi sau COVID-19. Cụ thể, giá trị sản lượng dệt may đã trở lại mức trước đại dịch vào cuối T11/ 2021.
Thời điểm hiện tại, nhiều doanh nghiệp đã nhận được các đơn hàng đến quý III/2022, tỷ lệ tiêm chủng vaccine của cả nước đạt hơn 81% giúp các doanh nghiệp có thể đảm bảo nguồn cung lao động, hoạt động tối đa công suất.
Thị trường xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam
VNDIRECT kỳ vọng cho thuê bất động sản KCN sẽ là động lực tăng trưởng doanh thu chính của một số công ty dệt may trong năm 2022
Các doanh nghiệp dệt may như GIL, ADS, TCM, TNG đã mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực bất động sản (BĐS) và BĐS khu công nghiệp. VNDIRECT kỳ vọng mảng kinh doanh mới sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp duy trì tăng trưởng lợi nhuận trong giai đoạn 2022-25.
VNDIRECT cho rằng hầu hết giá cổ phiếu của dệt may hiện đang gần với giá trị hợp lý và nhà đầu tư nên có chọn lọc, tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp đầu ngành và có kế hoạch mở rộng công suất nhà máy trong 2022-25.
VNDIRECT lựa chọn 2 doanh nghiệp STK và MSH vì tiềm năng tăng trưởng từ các dự án Unitex và SH10. Cụ thể, VNDIRECT kỳ vọng lợi nhuận STK sẽ tăng 90,4% svck trong năm 2021 và đạt CAGR 37,0% trong giai đoạn 2021-23. Phân khúc sợi tái chế trong năm 2022 sẽ đặc biệt hưởng lợi từ sự phục hồi nhu cầu của thị trường nội địa và tình hình thiếu điện ở Trung Quốc. Nhà máy Unitex giai đoạn 1 sẽ đi vào hoạt động thương mại trong Q1/23 nâng tổng sản lượng tiêu thụ trong năm dự kiến đạt 76.800 tấn/năm để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với sợi tái chế và sợi nguyên sinh.
Đối với MSH, VNDIRECT kỳ vọng doanh nghiệp sẽ tiếp tục duy trì triển vọng tích cực trong 2022-2023 nhờ lượng đơn đặt hàng từ các khách hàng Mỹ tăng trở lại và nhà máy SH10 sẽ giúp doanh thu FOB tăng trưởng 15%/20% svck trong 2022/23. MSH đã bán các khoản phải thu từ New York & Company với giá trị thu hồi là 80 tỷ đồng.
Doanh nghiệp ngành gỗ cần chính sách hỗ trợ để vượt qua khó khăn
Các doanh nghiệp ngành gỗ kiến nghị nhà nước cần hỗ trợ về nguồn vốn để đầu tư chuyển đổi công nghệ sản xuất, đào tạo lao động và nguồn nguyên liệu rừng trồng trong nước...
Thông tin tại Hội thảo "Ngành gỗ Việt Nam các vấn đề chiến lược và định hướng giải pháp phát triển đến năm 2030" mới được tổ chức tại TP.HCM, bà Đỗ Thị Thu Hương, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) cho biết, trong 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng của ngành chế biến gỗ Việt Nam thuộc hàng năng động nhất thế giới. Việt Nam đã vươn lên trở thành nước sản xuất gỗ và đồ nội thất lớn thứ 7 và là nhà xuất khẩu lớn thứ 2 thế giới.
Trong nước, xuất khẩu gỗ cũng nằm trong nhóm 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, mức độ thặng dư thương mại xếp thứ 3 trong các mặt hàng, tạo việc làm cho hơn nửa triệu lao động. Tuy nhiên, việc phát triển nhanh trong thời gian khá ngắn cũng khiến ngành chế biến gỗ và nội thất Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn như thiếu nguồn nguyên liệu, công nghệ chế biến và năng suất lao động hạn chế so với các quốc gia khác.
Riêng về nguyên liệu, hiện nay nguồn cung nguyên liệu khai thác trong nước chỉ mới đáp ứng được khoảng 75% tổng nhu cầu chế biến, bao gồm khai thác rừng trồng và khai thác cây trồng phân tán, gỗ cao su. Mỗi năm, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 8,5 triệu m3 gỗ.
Vấn đề của nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng trong nước hiện nay là trong tổng số 3,19 triệu hecta có tới 1,45 triệu hecta sản xuất quy mô hộ gia đình riêng lẻ, chủ yếu là gỗ nhỏ. Diện tích trồng rừng đạt chứng chỉ quản lý bền vững chỉ khoảng 307.000ha, chiếm 8,4% tổng diện tích rừng trồng của cả nước.
Về công nghệ, một số nhóm doanh nghiệp đã sử dụng công nghệ hiện đại với máy móc chủ yếu được nhập khẩu, tuy nhiên các thiết bị đang sử dụng đều có năm sản xuất trung bình là 2010, khá cũ so với các thiết bị hiện nay.
Ngành chế biến gỗ Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn như: thiếu nguồn nguyên liệu, công nghệ chế biến và năng suất lao động
Một điểm yếu khác của các doanh nghiệp ngành gỗ Việt Nam là tính liên kết theo chuỗi chưa cao. Số liệu khảo sát 311 doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cho thấy chỉ có 10,5% doanh nghiệp có ký hợp đồng dài hạn (từ 36 tháng trở lên) với các nhà cung cấp nguyên liệu trong nước; hơn 7% doanh nghiệp có ký hợp đồng dài hạn với các nhà cung cấp nguyên liệu nước ngoài.
Cùng nhận định, ông Nguyễn Văn Diện, Vụ trưởng Vụ Quản lý sản xuất lâm nghiệp, Tổng cục Lâm nghiệp cho rằng những thành tựu mà ngành gỗ và nội thất Việt Nam đạt được trong những năm gần đây là rất đáng khích lệ. Song cũng phải nhìn nhận thực tế rằng, ngành vẫn đang tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Cụ thể, trong tổng số hơn nửa triệu lao động đang làm việc trong ngành chế biến gỗ và nội thất, chỉ có 55% lao động động lành nghề, còn lại đều là lao động phổ thông chưa được đào tạo và chưa có kinh nghiệm.
Chất lượng nguyên liệu gỗ rừng trồng chưa được cải thiện, trong khi các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, EU, Nhật Bản... ngày càng kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc xuất xứ gỗ. Bên cạnh đó, tăng trưởng nhanh cũng khiến các doanh nghiệp trong nước đối mặt với sức ép cạnh tranh, các nguy cơ gian lận thương mại, nguồn gốc xuất xứ dễ dẫn đến bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Theo ông Nguyễn Văn Diện, để ngành gỗ phát triển bền vững cần thực hiện đồng bộ các giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ, vốn, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, liên kết trồng rừng và phát triển công nghiệp hỗ trợ. Bắt đầu từ việc nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu rừng trồng sẽ tạo ra nguồn gỗ có chứng nhận; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tự động hóa trong chế biến sản phẩm gỗ và phụ phẩm gỗ nâng cao hiệu suất sử dụng nguyên liệu. Song song đó, có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn, có trình độ chuyên môn và năng suất cho ngành chế biến gỗ và sản phẩm nội thất.
Các đại biểu khác cũng cho rằng, sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành và năng lực sản xuất, kiểm soát chất lượng của các doanh nghiệp nhỏ còn nhiều hạn chế. Chi phí gỗ nhập khẩu và chi phí hàng hoá xuất khẩu làm tăng giá thành, giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Với những hạn chế đó, các doanh nghiệp kiến nghị nhà nước cần hỗ trợ về nguồn vốn để doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi công nghệ sản xuất, đào tạo lao động và nguồn nguyên liệu rừng trồng trong nước.
Theo PGS.TS. Trần Đình Thiên, thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ còn ít, thiết kế mẫu mã còn yếu, các chính sách khuyến khích chưa đủ mạnh để doanh nghiệp tận dụng cơ hội phát triển.
"Ngành gỗ lâu nay chưa được đầu tư nhiều. Nếu như Chính phủ quan tâm hơn sẽ tạo sức đẩy cho ngành này phát triển mạnh hơn nữa và đây cũng chính là vấn đề cần xem xét. Hiện trình độ công nhân ngành gỗ còn thấp, hệ thống công nghiệp hỗ trợ cho ngành gỗ rất yếu. Chúng ta làm sao để có hệ thống chính sách hỗ trợ, cơ chế khuyến khích để ngành gỗ phát triển, đi vào quỹ đạo, hiện đại và phù hợp hơn trong tình hình mới", PGS.TS. Trần Đình Thiên chỉ rõ.
Campuchia đang mua lượng khổng lồ một loại vật tư nông nghiệp quan trọng của Việt Nam Trong bối cảnh giá phân bón trong nước đang tăng cao do ảnh hưởng của chiến sự Nga - Ukraine, nhiều ý kiến cho rằng, Chính phủ cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngừng xuất khẩu phân bón. Việt Nam xuất khẩu phân bón sang Campuchia nhiều nhất Tháng 1/2022, xuất khẩu phân bón của Việt Nam tăng kỷ lục,...