VN thoát thế kẹt ở Biển Đông thế nào?
Việc Việt Nam cải tổ theo hướng thúc đẩy nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường tự do, và một xã hội dân sự phát triển chắc chắn sẽ kết nối Việt Nam với các nước Châu Âu, Úc, Hàn, Nhật và Mỹ. Khi đó, sự ủng hộ Việt Nam sẽ mạnh hơn nhiều.
LTS: Trong những lúc đất nước gặp khó khăn nguy hiểm, luôn cần những tiếng nói từ nhiều trái tim và khối óc cùng chia sẻ mối quan tâm, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tiếp loạt bài hiến kế của các nhân sĩ trí thức Việt, Tuần Việt Nam xin giới thiệu ý kiến của ông Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế, Xã hội và Môi trường (iSEE)
Đâu là “cái phanh” xung đột?
Tìm ra một giải pháp tránh xung đột ở Biển Đông là không dễ dàng. Trung Quốc muốn thâu tóm Biển Đông để vươn ra thế giới, trở lại thời hoàng kim là “trung tâm của thiên hạ”. Mỹ không muốn điều này xảy ra nhưng không thể tự mình “bảo vệ” Biển Đông nếu các nước có tranh chấp như Việt Nam không phải là đồng minh. Như vậy, nếu Việt Nam nghiêng về Trung Quốc thì việc mất Biển Đông và lệ thuộc vào họ là điều nhãn tiền. Còn Việt Nam nghiêng về phía Mỹ thì tự biến mình thành tuyến đầu chống Trung Quốc, đẩy dân tộc vào nguy cơ xung đột nhiều rủi ro.
Theo lý thuyết thì nếu thương mại giữa hai nước tăng thì chiến tranh sẽ khó xảy ra vì các ràng buộc về kinh tế. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thương mại Việt-Trung thì nó không phải là “cái phanh” để ngăn cản xung đột. Tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc vào năm 2011 là 35,7 tỉ USD, tuy nhiên Việt Nam bị nhập siêu gần 13 tỉ USD từ Trung Quốc. Thương mại với Trung Quốc chiếm khoảng 18% tổng thương mại của Việt Nam, nhưng chưa đến 1% trong tổng số 3,87 nghìn tỉ đô thương mại của Trung Quốc. Rõ ràng, Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc nhiều hơn, và việc cắt đứt thương mại giữa hai nước sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam nhiều hơn đến Trung Quốc.
Giàn khoan CNOOC 981 của Trung Quốc đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam. Ảnh: THX
Dường như Việt Nam đang yếu thế trong việc đàm phán với Trung Quốc vì bị lệ thuộc trên mọi mặt trận từ kinh tế, chính trị đến an ninh. Rất không may, Việt Nam không có gì đủ hấp dẫn để đàm phán với Trung Quốc vì Biển Đông quá quan trọng với họ. Việt Nam cũng không thể bỏ Biển Đông vì Biển Đông cũng quá quan trọng với Việt Nam. Nếu mất Biển Đông coi như Việt Nam mất cửa đi ra thế giới, mất cơ hội phát triển, và mất lợi ích kinh tế từ Biển. Trong trường hợp này, liệu Việt Nam có phải “lên thuyền” với các quốc gia khác để cân bằng lại với Trung Quốc?
ASEAN có thể giúp Việt Nam giữ Biển Đông? Câu trả lời dường như là không vì hiện tại ASEAN chỉ có thể là một cơ chế giúp Việt Nam và các nước lớn truyền tin và đàm phán, còn bản thân nó không thể là “con thuyền” đủ lớn và vững chắc chịu được sức ép từ Trung Quốc. Như vậy, “con thuyền” còn lại dường như là Mỹ để Việt Nam có thể dựa vào?
Mỹ và Việt Nam có chung lợi ích đó là tự do hàng hải và ổn định ở Biển Đông. Trong những ngày qua, người phát ngôn Nhà trắng và các thượng nghị sĩ uy tín nhất của Mỹ như John McCain và Patrick Leahy liên tục đưa ra các tuyên bố lên án hành vi gây hấn của Trung Quốc ở Biển đông. Tuy nhiên, vẫn có những rào cản để Mỹ và Việt Nam trở thành đồng minh.
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam có những e ngại về cam kết của Mỹ trong việc bảo vệ lợi ích của Việt Nam. Điều này có cơ sở vì lợi ích của Mỹ trong mối quan hệ với Trung Quốc rất lớn, và rõ ràng động lực lớn nhất để Mỹ hành động là lợi ích quốc gia của họ. Thứ hai, việc trở thành đồng minh của Mỹ cũng đồng nghĩa với việc nằm cạnh miệng hố chiến tranh với Trung Quốc. Việt Nam muốn tránh điều này bằng mọi giá vì chiến tranh đã tàn phá đất nước này quá nhiều.
Về phía mình, Mỹ dù có muốn cũng khó làm đồng minh chiến lược của Việt Nam vì những khác biệt về chính trị và bất đồng quan điểm về nhân quyền. Chính vì vậy, dù Việt Nam là một mắt xích quan trọng trong bàn cờ chiến lược của mình ở châu Á, Mỹ khó lòng tiến xa hơn và gửi quân ứng cứu Việt Nam trong trường hợp có xung đột với Trung Quốc.
Thêm vào đó, Việt Nam đóng vai trò không đáng kể trong phát triển kinh tế của Mỹ. Thương mại với Việt Nam chỉ chiếm dưới 0,65% tổng thương mại của Mỹ, so 13% thương mại của Mỹ với Trung Quốc. Rõ ràng, lợi ích kinh tế của Mỹ với Trung Quốc lớn hơn với Việt Nam nhiều, đặc biệt khi Mỹ lại đang nhập siêu hàng năm từ Việt Nam gần 15 tỉ USD vào năm 2011 và ngày càng tăng.
Video đang HOT
Con đường nào cho Việt Nam?
Có một lợi ích mà cả Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam đều chia sẻ đó là hòa bình và ổn định ở Biển Đông và châu Á. Cho dù cả Mỹ và Trung Quốc đều muốn Việt Nam đứng về phía mình, nhưng họ cũng tạm hài lòng với hiện trạng.
Trung Quốc muốn Việt Nam ổn định nhưng không đủ mạnh để thách thức được họ. Việt Nam không được là “sân sau” của ai và nếu phục tùng/phụ thuộc vào Trung Quốc thì càng tốt. Mỹ muốn Việt Nam là liên minh để duy trì vai trò lãnh đạo ở Châu Á, nhưng không muốn gánh vác trách nhiệm bảo vệ Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh khác biệt về chế độ chính trị và giá trị quốc gia.
Tuy nhiên, duy trì hiện trạng mắc kẹt này không phải là điều tốt cho Việt Nam. Với chiến lược “từng bước một” Trung Quốc sẽ dần dần áp đặt sự kiểm soát của mình lên Biển Đông mà không cần đến chiến sự. Chiến lược này sẽ làm cho Việt Nam phân tâm, mệt mỏi và bất lực trước sự “gặm nhấm” của Trung Quốc. Hoa Kỳ, đôi khi sẽ lên tiếng “quan ngại sâu sắc” sau mỗi lần Trung Quốc gây hấn, nhưng không thể thách thức Trung Quốc trực tiếp vì Việt Nam không là đồng minh và những bước lấn “không đủ lớn để động binh”. Điều này không ảnh hưởng đến cân bằng chiến lược toàn cầu ngay, nhưng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của Việt Nam.
Rõ ràng Việt Nam cần tự thoát khỏi thế kìm kẹp này bằng cách tự đổi mới mình. Là nước nhỏ trong tranh chấp, Việt Nam nhận được sự cảm thông toàn cầu trước o ép từ phía Trung Quốc. Tuy nhiên, thế giới vẫn nhìn Việt Nam như là một đồng minh chia sẻ tư tưởng và ý thức hệ với Trung Quốc. Vì vậy, sự cảm thông với Việt Nam chưa vững chắc vì không dựa trên nền tảng giá trị chung. Việc Việt Nam cải tổ theo hướng thúc đẩy nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường tự do, và một xã hội dân sự phát triển chắc chắn sẽ kết nối Việt Nam với các nước Châu Âu, Úc, Hàn, Nhật và Mỹ. Khi đó, sự ủng hộ Việt Nam sẽ mạnh hơn nhiều, vì bên cạnh tính hợp pháp của chủ quyền Việt Nam có ở Biển Đông, lợi ích kinh tế, đầu tư, và tâm lý nghi ngờ và e ngại Trung Quốc, nền tảng giá trị sẽ là điểm tựa cho việc bênh vực Việt Nam.
Sự tự cải tổ này sẽ gây khó chịu cho Trung Quốc nhưng sẽ không là nguyên nhân để Trung Quốc gây chiến với Việt Nam. Ngược lại Trung Quốc sẽ mong Việt Nam tiếp tục duy trì vị thế “trung lập” vì Việt Nam đã là một phần của các giá trị toàn cầu. Khi đó, Việt Nam sẽ “thông lưu” với các nước về kinh tế, chính trị và xã hội nhưng vẫn có thể tiếp tục hữu hảo với Trung Quốc.
Trong vị thế của một nước độc lập và bình đẳng thực sự, việc duy trì hòa bình và chủ quyền ở Biển Đông có nhiều cơ hội thành công hơn.
Theo Vietbao
Trung Quốc chỉ chờ Việt Nam thiếu kiềm chế, rơi vào bẫy
Ở đây, tôi đánh giá cao phản ứng của Việt Nam, chưa rơi vào cái bẫy của Trung Quốc. Việt Nam mới chỉ đưa tàu thuộc lực lượng cảnh sát biển ra.
Căng thẳng tại Biển Đông vẫn tiếp tục tăng nhiệt với những hành động hung hăng của phía Trung Quốc.
Để góp thêm tiếng nói lý giải về điều này, chúng tôi đã tìm gặp chuyên gia Gregory Poling, chuyên gia nghiên cứu Đông Nam Á và châu Á Thái Bình Dương, Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế CSIS ở Washington D.C.
Trung Quốc gửi thông điệp với ASEAN rằng họ cứ lấn tới
* Xin được hỏi ông ngay là ông có đánh giá thế nào về thời điểm mà Trung Quốc lựa chọn để đưa giàn khoan Hải Dương (Haiyang Shiyou) 981 vào vùng biển Việt Nam.
Sự kiện này xảy ra ngay sau chuyến thăm của Tổng thống Obama tới các nước châu Á và đặc biệt là những tuyên bố mạnh mẽ khi ông Obama có mặt ở Malaysia và Phillippines liên quan tới Biển Đông nên cũng có thể tính đó căn cứ để chọn thời điểm, nhưng tôi cho rằng lý do vì ý đồ xưa nay của Trung Quốc với Biển Đông thì lớn hơn.
Hai tàu Cảnh sát biển 2012 và 4033 của Việt Nam, bị hư hại do tàu Trung Quốc đâm vào trên vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam, đã được các kỹ sư, công nhân của Tổng Công ty Sông Thu (Bộ Quốc phòng) hoàn thành việc khắc phục, sửa chữa các hư hại, sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ. (Ảnh: Trần Lê Lâm - TTXVN)
Nó nằm trong chuỗi sự kiện mà Trung Quốc đã gây ra với Malaysia ở bãi ngầm James Shoal, hay với Philippines ở Bãi Cỏ Mây trong năm nay. Nó cũng xảy ra sau khi vụ Philippines kiện Trung Quốc bắt đầu và chỉ ít ngày trước Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN.
Thế nên, nhắm vào Mỹ thì ít hơn, còn với ASEAN thì rõ, họ muốn gửi thông điệp rằng Trung Quốc sẽ vẫn cứ lấn tới trong cuộc tranh chấp này.
* Nhưng cũng có ý kiến cho rằng Trung Quốc tranh thủ khi mà Mỹ và thế giới đang tập trung vào tình hình ở Ukraine.
Đó cũng là một khả năng. Trung Quốc có thể nghĩ hoặc hy vọng rằng tình hình ở Ukraine làm suy giảm cam kết của Mỹ ở châu Á. Nhưng Trung Quốc bắt đầu khiêu khích các bên tranh chấp từ năm 2009, và năm ngoái là sự kiện bãi cạn Scarborough. Tất cả đều có trước khi có khủng hoảng Ukraina.
Thế nên, bất cứ sự liên hệ nào ở đây cũng có thể làm dư luận nghĩ khác đi về hành động và mục tiêu của Trung Quốc. Đó là chiến lược lâu dài của Bắc Kinh.
Trung Quốc muốn đưa Việt Nam vào bẫy
* Tức là các hành động của Trung Quốc luôn có những ẩn ý ở phía sau. Với việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam có phải là vì vấn đề năng lượng hay là Trung Quốc âm mưu lấn rộng ra để tóm biển Đông trong cái đường chín đoạn mà họ vạch ra?
Hoàn toàn không phải vì vấn đề kinh tế. Cũng chẳng phải dầu lửa. Trung Quốc chỉ có một giàn khoan như Hải Dương 981. Nó được sử dụng chính ở vùng biển Hong Kong, và ở khu vực không có tranh chấp ở Biển Đông. Trung Quốc cần giàn khoan này sử dụng vào mục đích chính là khai thác dầu, thế nên họ tuyên bố chỉ cắm ở đó cho tới tháng Tám hoặc sớm hơn rồi rút về để khoan kiếm dầu thực sự.
Thế nên đưa giàn khoan tới chỉ là muốn gửi một thông điệp chính trị. Bên cạnh đó, có thể Trung Quốc cũng muốn khiêu khích Việt Nam, muốn Việt Nam có phản ứng vượt giới hạn. Đó chính là bài mà Bắc Kinh sử dụng lâu nay, đó là dùng các lực lượng phi quân đội nhưng vẫn đầy khiêu khích để đưa các nước vào bẫy.
Chúng ta có thể tham khảo những gì đã xảy ra ở đảo tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc hay ở Bãi cạn Scarborough khi mà Trung Quốc đã làm cho Philippines đưa tàu chiến ra và Trung Quốc hô lên rằng, đó Philippines có hành động khiêu khích.
Ở đây, tôi đánh giá cao phản ứng của Việt Nam, chưa rơi vào cái bẫy của Trung Quốc. Việt Nam mới chỉ đưa tàu thuộc lực lượng cảnh sát biển ra. Còn nếu Việt Nam đưa tàu quân sự ra, tôi nghĩ là Trung Quốc sẽ chỉ cho thế giới thấy kìa, Việt Nam đang khiêu khích, đang quân sự hóa khu vực tranh chấp (thực ra là khu vực hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế/thềm lục địa của Việt Nam -PLO), và sẽ lợi dụng sai lầm đó.
* Tức là những gì Việt Nam phản ứng cho tới nay là chuẩn mực?
Tôi cho rằng, tới nay, phản ứng của Việt Nam là chuẩn xác. Việt Nam cần phải cho Trung Quốc biết là không chấp nhận các hành động khiêu khích của Trung Quốc. Và Việt Nam cũng cần phát thông điệp rõ ràng rằng đây không phải vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Hành động thiếu kiềm chế ở đây có thể bị Trung Quốc lợi dụng như tôi vừa nói, và cũng có thể dẫn tới xung đột mà không bên nào muốn. Ở đây, Việt Nam hơn Philippines khi đối đầu với Trung Quốc là dù cho tiềm lực quân sự không bằng về sự hiện đại hay quy mô thì Việt Nam cũng vẫn tự tin có đủ khả năng đáp trả.
Việt Nam có tàu ngầm lớp Kilo hay các hệ thống khác có đủ khả năng gây tổn thương nếu như phía bên kia gây hấn quá mức. Đó là điều mà Trung Quốc không phải đối mặt trong vụ việc xảy ra với Phillippines.
* Trong bài viết của ông, ông nói rằng Trung Quốc đã vi phạm Công ước Liên hợp quốc về luật Biển UNCLOS. Ông có thể chia sẻ tiếp về luận điểm này?
Khu vực đặt giàn khoan ở đây mà xét về pháp lý, cơ sở của Việt Nam đáng kể hơn. Việt Nam có quyền khai thác dầu khí trong vùng biển của mình. Còn nếu cứ cho là Trung Quốc lập luận một vài đảo ở Hoàng Sa là của họ mà ở đây theo tôi cơ sở là rất yếu, thì vùng biển đó rõ ràng là có tranh chấp.
Công ước Liên hợp quốc về luật biển có quy định rõ là ở vùng biển có tranh chấp không được có hành động đơn phương làm tình hình trở nên xấu đi, có các hành động khiêu khích. Thay vào đó phải nỗ lực để đạt tới thỏa thuận cuối cùng.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cùng ký với Việt Nam và các nước ASEAN khác về Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông (DOC), theo đó không có các hành động làm tình hình xấu đi. Quy tắc yêu cầu không được thực hiện bất cứ hành động làm tình trạng trở nên nghiêm trọng hơn, thì việc dùng tàu uy hiếp và đặt giàn khoan chính là vi phạm. Hơn nữa việc dùng vòi rồng phun nước vào tàu cảnh sát biển của Việt Nam cũng đã vi phạm cả Công ước lẫn Quy tắc nói trên.
Hoạt động của Trung Quốc ở Gạc Ma không có giá trị pháp lý
* Trong thời gian gần đây, Trung Quốc tiến hành xây dựng trên đảo Gạc Ma và một số hòn đảo mà Việt Nam có chủ quyền hoặc nằm trong diện tranh chấp. Có sự móc nối nào không giữa việc đặt giàn khoan với các công trình xây dựng đó?
Trung Quốc cố gắng xây dựng nhiều các công trình bởi họ muốn lấy đó làm cơ sở để tính chủ quyền mặt nước. Và có thể là để làm bằng chứng một khi họ chiến thắng ở tòa án quốc tế phân xử tranh chấp chủ quyền, rằng giờ nó là của tôi và các cơ sở quản lý này của tôi đã ở đây. Nhưng thật ra, các hành động xây dựng đó lại chẳng có chút giá trị pháp lý nào cả.
Vì luật quy định là các công trình xây dựng kể từ sau khi khu vực được coi là có tranh chấp đều không được công nhận trước các luật định. Nhưng Trung Quốc lại không có ý định ra bất cứ tòa án nào cả. Vì thế, việc xây dựng của họ ở đây là nhằm mục đích khác. Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã đánh chiếm nó sau những trận chiến làm 64 chiến sĩ Việt Nam hy sinh, nên cũng giống như họ đã làm với Philippines, Trung Quốc muốn cho biết rằng không chỉ đánh chiếm, mà còn chiếm giữ nó mãi mãi.
* Xin hỏi ông câu cuối, là ngày 7/5, Thượng nghị sĩ John McCain ra thông cáo của ông, Bộ Ngoại giao Mỹ cũng có thông cáo rõ ràng, và Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel khi thăm Hà Nội cũng khẳng định quan điểm. Vậy thì Mỹ có thể làm gì để góp phần giải quyết căng thẳng này khi mà Mỹ tuyên bố rằng lợi ích của Mỹ gắn với khu vực?
Đó chính là một phần trong những gì mà Mỹ nên làm. Và nó cũng là hành động mà bất cứ quốc gia có trách nhiệm nào cũng làm khi mà những hành động của Trung Quốc đã vi phạm nền tảng cơ bản là luật pháp quốc tế, quyền tự do hàng hải và tiếp cận.
Mỹ lâu nay luôn nhắc đi nhắc lại rằng dù chủ quyền có thuộc về ai thì các bên phải tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong những ngày qua, Nhật và Singapore đã ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam. Tôi chờ đợi nhiều quốc gia khác cũng sẽ làm như thế tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN. Và tôi cũng chờ đợi Mỹ và các nước khác dùng các kênh quan hệ của mình với Hà Nội và Bắc Kinh để đảm bảo rằng căng thẳng không tăng nhiệt nữa.
Tất cả chỉ dừng lại ở cảnh sát biển, chứ không phải hải quân. Hiện tại 6 cảnh sát biển Việt Nam bị thương, nhưng nên nhớ, khi có một người hy sinh, mọi thứ sẽ vượt tầm kiểm soát. Đó chính là cái mà Mỹ cần làm, chứ việc đưa hạm đội 7 tới chỉ làm tình hình xấu đi.
Theo TUẤN ĐẠT/WASHINGTON (VIETNAM )
Thủ tướng Việt Nam mềm dẻo nhưng cương quyết Bà Aye Thu San, phóng viên cao cấp tờ 7 Day News của Myanmar, rất ấn tượng với phát biểu của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN, cho rằng ông đã "thể hiện sự mềm dẻo, khôn khéo, nhưng kiên quyết". Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi bước vào phòng họp của Hội nghị cấp cao...